Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7939)
Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương 

Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn vì cả đại hội nói về vương pháp chính luận rồi, lại bảo, đại hội các người nên lắng nghe. Như lai lại nói cho các người về một sự phụng hành chánh pháp xưa kia của Như lai. Ngay lúc ấy đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Như lai xưa kia 
làm vị luân vương
bỏ hết đại địa 
và cả đại dương
đem bao trân bảo 
đầy bốn đại lục 
cung kính hiến cúng 
chư vị Như lai
(2) Như lai xưa kia 
trong vô lượng kiếp
cầu pháp thân 
tối cực chân tịnh
nên bao bảo vật 
đều xả bỏ cả, 
cả đến thân mạng 
cũng không tiếc lẫn. 
(3) Trong thì quá khứ 
khó lường đời kiếp, 
có bậc đẳng giác 
danh hiệu Bảo kế; 
sau khi Ngài đã 
nhập vào niết bàn
có một vị vua 
tên là Thiện sinh
(4) Làm bậc luân vương 
cả bốn đại lục, 
ngoại biên đại dương 
đều qui phục cả; 
vua có hoàng thành 
tên Diệu âm nhạc, 
vua thường cư trú 
nơi hoàng thành ấy. 
(5) Đêm mộng thấy nói 
phước trí Như lai
Thấy có pháp sư 
tên là Bảo tích
ngồi nghiêm trên tòa 
tựa vầng thái dương
diễn giảng kinh mầu 
Ánh sáng hoàng kim
(6) Sau khi tỉnh mộng
vua rất hoan hỷ
nỗi hoan hỷ lớn 
tràn khắp cơ thể. 
Đến lúc trời sáng, 
vua ra hoàng cung
đi đến dà lam 
của chư Bí sô. 
(7) Luân vương tôn kính 
cúng thánh chúng rồi, 
liền hỏi các ngài : 
trong thánh chúng này 
có hay không có 
pháp sư Bảo tích 
thành tựu công hạnh 
hóa độ chúng sinh? 
(8) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
cư trú ở trong 
một cái tịnh thất
chánh niệm trì tụng 
kinh mầu Hoàng kim
trang nghiêm bất động
thân tâm vui đẹp. 
(9) Một vị Bí sô 
hướng dẫn luân vương 
đến chỗ cư trú 
của ngài Bảo tích
thấy trong tịnh thất 
ngài ngồi thẳng mình, 
toàn thân đầy cả 
ánh sáng tướng đẹp. 
(10) Bí sô bảo vua: 
đây, ngài Bảo tích
giữ được hành xứ 
sâu xa của Phật, 
đó là bản kinh 
Ánh sáng hoàng kim
kinh vua các kinh, 
tối thượng bậc nhất. 
(11) Luân vương tức thì 
lạy ngài Bảo tích
cung kính chắp tay 
thỉnh cầu ngài: 
Xin bậc mặt đẹp 
tựa như trăng đầy, 
nói cho con nghe 
diệu pháp Hoàng kim
(12) Pháp sư Bảo tích 
nhận lời thỉnh cầu
hứa sẽ nói cho 
bản kinh vua ấy. 
Thế là khắp cả 
đại thiên thế giới
hết thảy chư thiên 
cùng đại hoan hỷ
(13) Vua dùng một nơi 
rộng rãi sạch sẽ, 
tận lực trang hoàng 
trân bảo quí lạ, 
rưới bụi bằng nước 
hương liệu thượng hạng
rải những bông hoa 
màu sắc đa dạng. 
(14) Nơi đặc biệt này 
vua đặt tòa cao, 
trang hoàng bảo cái 
tràng phan gấm lụa; 
xát hương xoa hương 
với đủ mọi cách, 
hơi thơm tỏa ra 
khắp cả mọi nơi
(15) Thiên, long, tô la, 
khẩn na la
ma hô lạc dà 
cùng với dược xoa
nhất là chư thiên 
rải hoa mạn đà
hiến cúng pháp tòa 
rất cao cả ấy. 
(16) Lại có hàng ngàn 
hàng vạn chư thiên 
ưa nghe chánh pháp 
cùng đến tụ tập
Pháp sư bắt đầu 
rời chỗ ngồi cũ, 
họ đã hiến cúng 
bằng những thiên hoa
(17) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
tắm rửa mình mẩy, 
mặc đồ sạch sẽ, 
đi đến đại hội
lại chỗ pháp tòa
chắp tay chân thành 
kính lễ bái. 
(18) Thiên chủ, thiên chúng
cùng với thiên nữ
chung nhau rải xuống 
thiên hoa mạn đà
trăm ngàn thiên nhạc 
khó nghĩ khó tả, 
ở trong không trung 
xuất ra tiếng mầu. 
(19) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
liền lên pháp tòa 
ngồi xếp bằng
tập trung tâm trí 
nghĩ đến mười phương 
trăm ngàn vạn ức 
bậc Đại từ tôn
(20) Nghĩ đến tất cả 
chúng sinh đau khổ
phát sinh ý niệm 
từ bi bình đẳng
Rồi vì chủ mời 
Thiện sinh vương, 
giảng kinh mầu 
Ánh sáng hoàng kim
(21) Vua đã nghe được 
diệu pháp như vậy, 
thành tâm chắp tay 
nói rằng tùy hỷ
Nghe pháp hiếm có, 
Vua trào nước mắt, 
nỗi mừng lớn lao 
tràn ngập thân tâm
(22) Bấy giờ quốc chúa 
luân vương Thiện sinh
vì muốn hiến cúng 
kinh vua Hoàng kim
nên cầm viên ngọc 
như ý ma ni
nguyện rằng hãy vì 
bao loại chúng sinh
(23) Hãy ngay nơi đây, 
đại lục Thiệm bộ
mưa xuống thất bảo
những xâu chuỗi ngọc
để người nghèo thiếu 
đồ dùng tiền của 
hảy đều tùy ý 
thụ hưởng hạnh phúc
(24) Tức thì thất bảo 
đổ xuống khắp nơi, 
sung mãn dân chúng 
cả bốn đại lục, 
cần gì tùy ý
chuỗi ngọc làm đẹp 
y phục ẩm thực 
không thiếu thứ gì. 
(25) Bấy giờ quốc chúa 
luân vương Thiện sinh 
thấy bốn đại lục 
được mưa trân bảo
thì đem hiến cúng 
Bảo kế như lai
và Bí sô tăng 
theo di huấn Ngài. 
(26) Đại hội nên biết 
luân vương Thiện sinh 
ngày nay chính là 
bản thân Như lai
xưa kia đã bỏ 
cả đại địa này, 
cả bao trân bảo 
đầy bốn đại lục. 
(27) Còn ngài Bảo tích
vị đại pháp sư, 
đã thuyết diệu pháp 
cho Thiện sinh vương, 
diễn giảng kinh vua 
cho nhà vua ấy, 
nay ở hướng đông 
thành đức Bất động
(28) Như lai xưa kia 
lắng nghe kinh vua, 
chắp tay nói rằng 
con xin tùy hỷ
quảng thí thất bảo
do những phước ấy 
được kim cương thân 
tối thắng bậc nhất. 
(29) Thân ấy ánh vàng 
trăm phước trang nghiêm
ai nhìn thấy được 
cũng hoan hỷ cả; 
tất cả chúng sinh 
không ai không thích, 
vô số chư thiên 
cũng thích như vậy. 
(30) Như lai trải qua 
chín mươi chín lần 
vô số đời kiếp 
làm vị luân vương
hoặc làm quốc vương 
cho những tiểu quốc 
cũng đến số lượng 
trăm ngàn đời kiếp. 
(31) Trong vô lượng kiếp 
lại làm Đế thích
và cũng đã làm 
bậc Đại phạn vương, 
hiến cúng Thập lực 
đại từ thế tôn 
số lượng đời kiếp 
cũng khó biết hết. 
(32) Như lai xưa kia 
nghe kinh, tùy hỷ
khối phước có được 
số lượng khó biết; 
do khối phước ấy 
được vô thượng giác
được pháp tánh thân 
diệu trí chân thường
Bấy giờ đại hội nghe sự tuyên thuyết như vậy ai cũng than là hiếm có. Ai cũng nguyện phụng trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim, quảng bá bất tuyệt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19671)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23931)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41173)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19657)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23940)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21728)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23280)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27474)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26520)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29280)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33139)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20167)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25722)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20882)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31259)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38506)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21392)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44209)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29781)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42122)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22111)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45671)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32066)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23933)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24341)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29219)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33875)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27651)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32089)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21031)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28824)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21531)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27999)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22046)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19474)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19442)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19804)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19209)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29124)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20591)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28257)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23617)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33141)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31809)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39581)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21526)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19355)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26326)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24785)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21728)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22348)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29104)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22537)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20452)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23474)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21217)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35259)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24532)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant