Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8468)
Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì (90)

Bấy giờ đức Thế tôn bảo Đại cát tường thiên nữ, rằng nếu có thiện nam hay thiện nữ đức tin trong sáng nào muốn đem cúng phẩm bất tư nghị phụng hiến chư vị Như lai trong ba thì gian, lại muốn thấu hiểu hành xứ (91) rất sâu của các Ngài, thì người ấy quyết định phải hết lòng tùy bản kinh vua này ở đâu hãy diễn giảng quảng bá cho chúng sinh chỗ ấy, dầu chỗ ấy là thành thị, xóm làng hay trong chằm núi. Còn những người nghe pháp thì phải bỏ tâm tưởng tán loạn mà tập trung thính giác, chuyên chú tâm trí. Bấy giờ đức Thế tôn liền nói những chỉnh cú sau đây cho chư thiênđại hội.

(1) Đối với chư Như lai 
muốn hiến cúng siêu việt
lại muốn hiểu lĩnh vực 
sâu xa của các Ngài, 
(2) thì thấy ai diễn giảng 
kinh Ánh sáng hoàng kim
hãy đích thân đi đến 
những chỗ diễn giảng ấy. 
(3) Kinh ấy khó nghĩ bàn, 
phát sinh mọi phước đức
trong biển khổ rộng lớn 
cứu vớt bao chúng sinh
(4) Như lai thấy kinh này 
đầu giữa cuối đều hay, 
đều sâu không lường nổi, 
thí dụ cũng không bằng. 
(5) Giả như cát sông Hằng
bụi đại địa, nước biển, 
đá núi cả không gian
không ví được ít phần. 
(6) Muốn hội nhập pháp tánh 
hãy lắng nghe kinh này: 
nơi chùa tháp pháp tánh 
mới khéo được hội nhập. 
(7) Trong chùa tháp như vậy 
Thấy ta, đấng Mâu ni
với ý đẹp lời hay 
quảng diễn kinh vua này. 
(8) Thấy thế nên nhiều kiếp 
số lượng khó nghĩ bàn, 
thường ở trong trời người 
hưởng được vui siêu việt
(9) Lắng nghe kinh vua này 
hãy tư duy như vầy
ta được một hợp thể 
phước đức bất tư nghị
(10) Giả sử khối lửa lớn 
trải dài trăm thiện na, 
nhưng vì nghe kinh này 
bước qua không do dự
(11) Đến chỗ giảng kinh này 
được nghe kinh này rồi, 
ác nghiệp loại trừ hết, 
ác mộng cũng loại trừ. 
(12) Ác tinh và biến quái 
cổ đạo cùng tà mị, 
lúc nghe được kinh này 
thì rời xa tất cả. 
(13) Hãy trang trí tòa cao 
đẹp sạch tựa hoa sen
pháp sư ngồi trên đó 
trông như chúa đại dương
(14) An tọa pháp tòa rồi 
giảng kinh sâu xa này, 
lại sao chép tụng trì 
giải thích ý nghĩa 
(15) Pháp sư rời tòa ấy 
đi đến các nơi khác
thì nơi tòa cao ấy 
tưởng thấy bao thần biến
(16) Hoặc thấy hình pháp sư 
còn ngồi trên tòa cao. 
Hoặc thấy hình Như lai 
cùng chư vị Bồ tát
(17) Hoặc tưởng đức Phổ hiền, 
hoặc tưởng Diệu cát tường
hoặc thấy Từ thị tôn, 
ngồi trên tòa cao ấy. 
(18) Hoặc thấy tướng kỳ diệu 
hay thấy hình chư thiên
và mới thấy như vậy 
thoạt cái đã biến mất. 
(19) Thấy những điềm lành ấy 
làm gì cũng vừa ý
phước đức viên mãn cả: 
Như lai nói như vậy. 
(20) Siêu việtdanh tiếng
hủy diệt mọi phiền não
giặc ngoại xâm trừ được, 
chiến đấu thường đắc thắng
(21) Ác mộng toàn không có 
độc tố cũng tiêu tan
ác nghiệp thân miệng ý 
kinh lực cũng diệt được. 
(22) Trong đại lục Thiệm bộ 
danh tiếng tràn đầy cả, 
bao nhiêu những oán thù 
rời xa được hết thảy. 
(23) Thù địch đến xâm lăng 
nghe danh cũng triệt thoái
không động đến vũ khí, 
đối trận sinh hoan hỷ
(24) Phạn vương và Đế thích
bốn Thiên vương hộ thế
Kim cương dược xoa
Chánh liễu tri đại tướng
(25) long vương hồ Vô nhiệt
cùng với Sa yết la, 
nhạc thần Khẩn na la
Tô la kim sí chủ, 
(26) Đại biện tài thiên nữ
Đại cát tường thiên nữ, 
chư thiên đứng đầu này 
thống lãnh cả thiên chúng
(27) thường hiến cúng Như lai 
Pháp bảo siêu việt
thường sinh tâm hoan hỷ 
tôn kính kinh vua này. 
(28) Thiên chúng như thế này 
đều cùng nhau suy nghĩ
quan sát người làm phước 
rồi cùng nói như vầy
(29) Hãy coi những người ấy 
là bậc đại phước đức
thiện căn tinh tiến lực 
sẽ sinh lên Thiên giới
(30) Để nghe kinh vua này, 
người ấy kính đến đây, 
hiến cúng chùa tháp Pháp 
vì lòng tôn trọng Pháp. 
(31) Người ấy thương chúng sinh 
mà làm đại lợi ích
và là đồ chứa đựng 
kinh vua sâu xa này. 
(32) Nhập được pháp môn này 
là nhập được pháp tánh
nên với kinh Hoàng kim 
hãy hết lòng lắng nghe. 
(33) Người ấy đã hiến cúng 
vô số chư Như lai
do thiện căn lực ấy 
mới được nghe kinh này. 
(34) Do vậy các thiên chủ
thiên nữ Đại biện tài
thiên nữ Đại cát tường
cùng bốn vị Thiên vương
(35) và vô số Dược xoa 
dũng mãnh đầy thần lực
phân nhau ra bốn phía 
thường đến hộ vệ cho. 
(36) Nhật nguyệtĐế thích
chư thần nước gió lửa, 
Phệ sốt nộ, Diêm la
Đại biện tài vân vân
(37) Các Thiên vương hộ thế 
dũng liệt, đủ uy thần
hộ vệ người trì kinh 
ngày đêm không rời xa. 
(38) Đại lực dược xoa vương, 
Na la diên, Tự tại
hâm tám thần Dược xoa, 
Chánh liễu tri cầm đầu, 
(39) và trăm ngàn Dược xoa 
sức lớn lại thần thông
thường đến chỗ hiểm nguy 
ủng hộ người trì kinh. 
(40) Kim cương dược xoa vương 
với năm trăm tùy thuộc
cùng chư đại bồ tát 
cũng thường đến hộ trì
(41) Bảo vương dược xoa chủ, 
cùng với Mãn hiền vương, 
Khoáng dã, Kim tì la
Tân độ la, Hoàng sắc (92) . 
(42) Mỗi dược xoa vương này 
cùng năm trăm tùy thuộc
thấy ai nghe kinh vua 
thì cùng đến hộ vệ
(43) Thái quân, Kiền thát bà, 
Vi vương, Thường chiến thắng, 
Châu cảnh và Thanh cảnh
và Bột lý sa vương, 
(44) Đại tối thắng, Đại hắc, 
Tô bạt noa kê xá, 
Bán chi ca, Dương túc, 
cùng với Đại bà dà, 
(45) Tiểu cừ và Hộ pháp
cọng với Di hầu vương
Châm mao và Nhật chi, 
Bảo phát, cùng đến giúp. 
(46) Đại cừ, Nặc câu la
Chiên đàn, Dục trung thắng, 
Xá la với Tuyết sơn
cùng với Sa đa sơn (93) , 
(47) đều có thần thông lớn 
hùng mãnh đủ đại lực
thấy người trì kinh ấy, 
cùng đến mà hộ vệ
(48) A na bà đáp đa, 
cùng với Sa yết ra, 
Mục chân, Ê La diệp, 
Nan đà, Nan đà nhỏ (94) , 
(49) rồng trong trăm ngàn rồng, 
đủ thần thông uy đức
cùng giúp người trì kinh, 
ngày đêm không rời bỏ. 
(50) Bà trĩ, La hầu la
Tì ma chất đa la
Mẫu chỉ chiêm bát ra, 
Đại kiên và Hoan hỷ (95) . 
(51) Và tô la vương khác 
cùng vô số thiên chúng
có sức lớn, mạnh mẽ, 
đều đến giữ người ấy. 
(52) Mẫu thần Ha lị để, 
Dược xoa chúng năm trăm, 
người trì kinh thức dậy 
là đến hộ vệ cho. 
(53) Chiên trà, Chiên trà lị, 
Chiên trĩ nữ dược xoa
Côn đế, Câu tra xỉ, 
Hút tinh chất chúng sinh (96) , 
(54) thần chúng như thế ấy 
sức lớn, có thần thông
giữ gìn người trì kinh 
ngày đêm thường không rời. 
(55) Vô lượng các thiên nữ 
Biện tài thiên cầm đầu, 
bao nhiêu là tùy thuộc 
Cát tường thiên lãnh đạo
(56) Nữ thần đại địa này, 
thần trái hạt vườn rừng, 
thần cây, thần sông rào, 
thần chùa tháp, vân vân
(57) chư thiên thần như vậy 
lòng sinh đại hoan hỷ
cùng đến mà hộ vệ 
người đọc tụng kinh vua. 
(58) Thấy ai trì kinh vua, 
tăng thọ lượng sắc lực, 
tăng uy quang phước đức
tăng tướng tốt trang nghiêm
(59) mà tinh tú biến quái 
xúc phạm đến người ấy, 
thì đến nỗi ác mộng 
cũng làm cho tan biến. 
(60) Nữ thần đại địa này 
Kiên cố đầy uy thế, 
bằng năng lực pháp vị 
của kinh vua Hoàng kim
(61) làm cho màu mỡ đất 
vốn thấm xuống rất sâu, 
nay lại được thấm lên 
tươi nhuần cho đại địa
(62) Đại địa dày sáu mươi 
tám ức du thiện na, 
từ ngoại biên kim cương 
màu đất vẫn thấm lên. 
(63) Lại do nghe kinh vua 
được khối đại công đức
làm cho chính chư thiên 
cũng nhờ được ích lợi
(64) làm cho chư thiên ấy 
tăng uy lực ánh sáng, 
tăng hoan hỷ yên vui, 
hết hiện tượng suy đồi
(65) Đại lục phía nam này 
thần cây trái lúa thóc 
cũng do lực kinh vua 
mà tâm thường hoan hỷ
(66) làm lúa cây thành thục
bông hoa đều sum sê, 
trái hạt đầy phẩm chất, 
tất cả tràn đại địa
(67) Bao nhiêu loại cây cỏ, 
và cả những vườn rừng, 
đều sinh ra hoa đẹp, 
hương thơm thường lan tỏa. 
(68) Những loại cây có hoa 
kết ra các thứ trái, 
thì trái ngon và ngọt, 
và chỗ nào cũng có. 
(69) Cũng tại đại lục này, 
vô số những long nữ 
tâm sinh đại hoan hỷ
cùng vào trong ao hồ. 
(70) Sen hồng, sen trắng nở, 
sen xanh và sen trắng, 
ao hồ nào cũng trồng 
và hoa đầy ao hồ. 
(71) Uy lực kinh vua này 
làm không gian trong sáng
mây mù bị xua tan
toàn bộ đều sáng sủa. 
(72) Thái dương phóng ánh sáng 
trong suốtrực rỡ
do lực kinh vua này 
sáng huy hoàng khắp nơi. 
(73) Uy lực kinh vua này 
hỗ trợ cho quốc chúa, 
có và dùng vàng ròng 
kiến tạo cung điện. 
(74) Thần thái dương vui vẻ 
nhìn thấy đại lục này, 
nên thường đem sáng lớn 
chiếu rực khắp mọi nơi
(75) Do vậy trong đại địa 
bao nhiêu hồ ao sen, 
ánh sáng chiếu đúng lúc 
nên hoa sinh nở cả. 
(76) Trong cả đại lục này 
trái hạt và dược liệu 
đều khéo thành thục hết 
và tràn đầy đại địa
(77) Do uy lực kinh vua, 
nhật nguyệt chiếu đến đâu 
tinh tú đúng hành độ 
gió mưa thuận thời tiết. 
(78) Khắp đại lục Thiệm bộ 
đất nước rất giàu vui, 
chỗ nào có kinh vua 
hơn chỗ khác bội phần. 
(79) Kinh Ánh sáng hoàng kim 
quảng bá đến chỗ nào, 
có người giảng và tụng 
thì phước được như vậy. 
Bấy giờ Đại cát tường thiên nữ, cùng chư thiên vân vân, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết như vậy thì ai cũng đại hoan hỷ, nhất tâm hộ vệ kinh vua và những người thọ trì kinh vua, làm cho những người ấy không lo buồn, được an lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49712)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34611)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33429)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43900)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57024)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47537)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39411)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38455)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52908)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36583)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32228)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40433)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43460)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31436)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46693)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36160)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28680)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29211)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31864)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28793)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33343)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29109)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60965)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39717)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26638)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29638)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37341)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40068)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26824)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42627)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37266)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28272)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28880)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26387)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27153)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26175)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27791)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30450)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33256)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28546)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30054)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25474)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21829)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51270)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26705)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28600)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27686)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24338)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27449)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31906)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30171)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27677)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35405)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27427)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29990)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31740)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22991)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24167)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23006)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant