Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thứ 1 Lược Giải

02 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7925)
Bài Thứ 1 Lược Giải

KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải

Hoà Thượng Thích Thiện Hoa

 

Bài Thứ 1 
LƯỢC GIẢI 

Đề mục kinh có tám chữ: "Kim Cang Bát Nhã Ba la mật kinh"; gọi tắt là kinh Kim Cang" 

KINH: Kinh điển hay giáo lý, do Phật Phật hoặc Bồ Tát nói ra. Chữ "Kinh" có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại có ba nghĩa như sau: 

1. Đường canh (nghĩa đen): Sợi chỉ xuôi trong tấm vải. Nhờ sợi chỉ xuôi xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. "Kinh" cũng có nghĩa là sự tổng hợp ghi chép lại các lời nói của Phật hoặc thánh hiền

2.Thường: Không thay đổi. Chơn lý của Phật không thay đổi; dù Phật quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng đều nói chơn lý như vậy. 

3. Hợp (Khế): Kinh của Phật "hợp với chơn lý của vũ trụ" và " hợp với căn cơ trình độ của chúng sanh". Cũng một bộ kinh, mà tuỳ theo trình độ của mỗi người, kẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ có cao thấp không đồng, mà cứ như lý tu hành thì đều được khỏi khổ luân hồi, không xót một người nào. Kinh Phật có những đặc điểm như thế, nên gọi là "Khế kinh" 

KIM CANG: Chữ "Cang", người Nam đọc là "cang", người Bắc đọc là "cương". Có hai nghĩa

1. Ngọc Kim cương: Thuộc về loại khoáng vật rất quí giá. Tánh nó rất cứng và rất bén, đã không bị các vật phá hoại, trái lại còn phá hoại các vật. 

2. Kim Cang: chất cứng rắn trong loại kim khí, tức là "thép", cũng thuộc về loại khoáng vật. Tánh nó cũng rất cứng bén, và cụng không bị các vật phá hoại, trái lại còn phá hoại các vật, như khoan sắt, đục đá v.v...dao búa nhờ có thép mới bén. 

Chất "cứng rắn" của "ngọc Kim cương" hay của "thép", đã saün có từ hồi nào đến giờ, không phải do rèn luyện mới có, hay nhờ các vật bên ngoài tạo thành. 

Phật dùng "ngọc kim cương" hay "chất thép cứng", để thí dụ "trí huệ Bát Nhã" rất quí báu và saün có trong mọi người (tức là tánh Phật sáng suốt của mỗi chúng sanh). 

Trí huệ Bát Nhã, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập mới thành. Nó có saün trong mỗi chúng sanh từ vô thỉ đến nay. Dù ở địa vị phàm phu nó cũng không giảm, hay chúng quả Thánh nó cũng không thêm. Nó đã không bị các vô minh phiền não tàn phá, trái lại còn phá tiêu tất cả vô minh phiền não từ vô thỉ đến nay. Nó phá một cách rốt ráo và dễ dàng, nhu gió thổi mây bay, mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nr6n gọi là "Bát Nhã Ba La mật" Trí huệ rốt ráo

BÁT NHÃ: Dịch âm của chữ Phạn "Prajnà". Vì Trung hoa không có chữ dịch cho cân xứng nên chỉ dịch nguyên âm là "Bát Nhã". 

Bát Nhã có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sau nghĩa: 

1. Viễn ly: xa lìa các vô minh, phiền não vọng chấp

2. Minh: Sáng, không mờ tối 

3. Huệ: Sáng tỏ 

4. Thanh tịnh: trong sạch không nhiễm ô 

5. Trí: Thông suốt 

6. Trí huệ: Sáng tỏ thông suốt 

Bát Nhã có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa thì không được đúng lắm, nên các nhà dịch chỉ để nguyên âm chữ Phạn (Bát Nhã). 

Tuy nhiên, trong 6 nghĩa trên đây, nếu đem so sánhcân nhắc, thì có thể dùng tạm nghĩa"trí huệ"; vì nghĩa "trí huệ" có phần rõ ràng và xác đáng hơn hết. 

Nhưng cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ ra các thứ Trí huệ sau đây, mới đúng với nghĩa chữ "Bát Nhã": 

1. Trí huệ thế gian: Trong thế gian, những người học rộng thấy xa, thông minh lanh lợi, khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi phương diện, thiên hạ gọi đó là người "trí huệ". Nhưng trí huệ đó là trí huệ của thế tục phàm phu, chứ không phải là "trí huệ Bát Nhã". 

2. Trí huệ ngoại đạo: Chúng ngoại đạo tu thiền định (xem bài "Thiền định" trong bản đồ tu Phật) lâu ngày cũng có trí huệ, biết được quá khứ vị lai, thần thông biến hoá vô cùng, nhiều pháp kỳ lạ. Nhưng trí huệ đó là tà trí huệ, chứ không phải là "trí huệ Bát Nhã". 

3. trí huệ Nhị thừa: Hàng Thoinh văn và Duyên giác, do tu pháp Tứ đếThập Nhị Nhơn duyên mà đặng đạo quả. Các vị này đã khỏi sanh tử luân hồi, thần thông tự tại và có trí huệ biết được việc quá khứ, hiện tạivị lai. Nhưng trí huệ đó thuộc về Tiểu thừa trí huệ, chỉ thấy về "ngã không chơn như"(thiên không), chớ chưa thấy được "pháp không chơn như", nên cũng không phải trí huệ Bát Nhã

Trừ ba loại trí huệ trên đây, duy chỉ có trí huệ Phật hay của Đại thừa Bồ Tát, mới phải là trí huệ Bát Nhã

Công dụng cũa trí huệ Bát Nhã, như mặt nhựt chiếu phá các mây mù vô minh vọng chấp: ngã, pháp, bốn tướng (ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả), có, không, chẳng phải có, chẳng phải không v.v...Bởi thế nên Trí huệ Bát Nhã chiếu soi các pháp, thì pháp nào cũng bỏ hình tướng giả dối, mà hiện ra tướng chơn thật. Tướng chơn thật của các pháp đã hiện, tức là chơn tâm, chơn như hay chơn lý của vũ trụ hiện ra vậy. 

Trí huệ Bát Nhã, có công năng như chiếc thuyền đưa chúng sanh một cách rốt ráo, từ bên này bờ mê muội triền phược của phàm phu, đến bên kia bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật, nên cổ nhơn cũng gọi là "thuyền Bát Nhã". 

Muốn phân biệt trí huệ Bát Nhã khác với trí huệ của phàm phu, ngoại đạoTiểu thừa, thì chúng ta nên dịch nghĩa chữ "Bát Nhã" như sau: 

1. Trí huệ Phật 

2. Trí huệ rốt ráo (Bát Nhã Ba La mật

3. Trí huệ Bát Nhã (dùng cả chữ Phạn và chữ hán)

BA LA MẬT: "ba la mật" hoặc "ba la mật đa" là dịch âm của chữ Phạn "Paramita". Có hai nghĩa

1. Đáo bỉ ngạn: Đến bờ bên kia. Trí huệ Bát Nhãcông năng đưa chúng sanh từ bờ triền phược mê muội của phàm phu bêb này, mà qua đến bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật bên kia, nên gọi là "Bát Nhã Ba la mật". 

2. Cứu kính viên mãn: hoàn toàn rốt ráo. Theo tục ngữẤn Độ, phàm làm việc gì, khi đã được hoàn toàn viên mãn, thì gọi là "Ba la mật". Trí huệ Bát Nhãloại trí huệ đã rốt ráo viên mãn, nên gọi là "Bát Nhã Ba la mật". 

Tóm lại, "Kim Cang Bát Nhã Ba la mật kinh" là kinh nói về "Trí huệ Phật"(Bát Nhã), loại Trí huệ đã rốt ráo viên mãn (ba la mật). Trí huệ này có công năng đưa hành giả từ bến mê muội triền phược của chúng sanh, sang bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật (đáo bỉ ngạn). 

Trí huệ Phật (Bát Nhã) rất quý báu (như ngọc kim cương), vừa cứng rắn và sắc bén (như thép), có thể phá tiêu núi vô minh vọng chấp (ngã, pháp hay bốn tướng) và đốn tận gốc rừng phiền não nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay, mà không bị hư tổn; cũng như ngọc kim cương hay chất thép, có thể đục chẻ các loại rất cứng, như sắt, đá v.v...mà không bị hư hoại. 

*** 

Phật nói kinh "Đại Bát Nhã" tại 4 chỗ, 16 hội gồm 600 quyển, trong 22 năm mới xong (nhị thp nhị niên Bát Nhã đàm). Tóm tắt lại kinh Đại Bát Nhã là "kinh Kim cann Bát Nhã Ba la mật". 

NÓI VỀ DANH, TƯỚNG, THỂ, DỤNG VÀ TÔN CHỈ CỦA KINH NÀY: 

Danh: Kinh này lấy "thí dụ" (Kim Cang) và "pháp" (Bát Nhã Ba la mật) mà đặt tên.Tướng: Kinh này lấy "Đại thừa" làm giáo tướng

Thể: Kinh này lấy "Thật tướng" làm thể. 

Dụng: Công dụng của kinh này là phá các chấp tướng (Ngã, pháp) đoạn hết các vô minh mê hoặc

Tôn chỉ: Kinh này lấy "Vô trụ"(không trụ chấp nơi nào) làm tôn chỉ

KẾT LUẬN 

Mới đọc đến đề mục kinh, chúng ta đã thấy thích thú lắm rồi ! Đề mục kinh chỉ có tám chữ, mà đã nói lên được rõ ràng nội dung và tôn chỉ của kinh: Phật dạy tất cả chúng sanh đều saün có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã (Phật tánh sáng suốt hay khả năng thành Phật) rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép. Trí huệ Bát Nhã có saün từ vô thỉ đến nay, đã không bị cái gì làm hư hoại; trái lại, còn phá tiêu núi Ngã tướng, Nhơn tướng, chúng sanh tướngThọ giả tướng, hay núi Ngã chấp, pháp chấp; nói tổng quát là phá các vô minh vọng chấp từ vô thỉ đến nay. Nó phá một cách hoàn toàn rốt ráo (Ba la mật) và dễ dàng, như mặt trời chiếu sương tan, gió thổi mây bay. 

Trí huệ Bát Nhãcông năng như chiếc thuyền, đưa hành giả từ bêb này bến vô minh mê muôi của chúng sanh, vượt qua khỏi sông mê bể khổ, đến bờ bên kia Giác ngộ giải thoát của chư Phật, tức là "Đáo bỉ ngạn" (Ba la mật). Bởi thế nên Cổ nhơn gọi là "Thuyền Bát Nhã". 

Chúng ta đã saün có "Trí huệ Bát Nhã" hay "Trí huệ Phật", thì thế nào chúng ta cũng sẽ thành Phật

*** 

TÊN DỊCH GIẢ 

Đức Phật Thích ca Mâu ni nói kinh này tại tịnh xá của ông Trưởng giả Cấp Cô Độc trong vườn của Thái tử Kỳ Đà, ở nước Xá Vệ

Ngài A Nan kiết tập. Ngài Tam Tạng Pháp sư tên Cưu Ma La thập dịch từ văn Phạn (Ấn Độ) qua văn Trung hoa. 

TAM TẠNG PHÁP SƯ: Tam Tạng là ba kho tàng; vì có công năng trùm chứa văn bghĩa của Phật pháp, nên gọi là "Tàng". 

1. Kinh tạng: chép những lời Phật dạy hoặc những lời của các vị Bồ Tát nói ra, khi đã được Phật chứng nhận

2. Luật tạng: chép những giới và luật (kỹ luật) trong 7 chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, sa di ni, Thức xoaƯu bà tắc, Ưu bà di). 

3. Luận tạng: chép những lời nghị luận chánh tà, phân biệt chơn vọng của các vị Bồ Tát và chư Tổ. 

Thầy giảng "kinh" thì gọi là "Pháp sư" 

Thầy giảng "luật" thì gọi là "Luật sư" 

Thầy giảng "luận" thì gọi là "Luận sư" 

Ngài Cưu Ma La Thập, thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh, Luật, Luận, nên gọi Ngài là "Tam Tạng Pháp sư" (vị Pháp sư thông ba tạng). 

CƯU MA LA THẬP (Kumàralabdha): Tên của một vị Pháp sưdanh tiếng lỗi lạcẤn Độ; bên Trung hoa dịch nghĩa là "Đồng Thọ", nghĩa là vị Pháp sư, tuổi tác thì "đồng niên", mà tài đức lại "kỳ lão" (thọ). 

Kinh này có nhiều bản dịch, nhưng bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập rất rõ ràng sáng suốt, nên được phổ biến nhiều hơn hết. 

*** 
 
 A. PHẦN TỰ 

(PHẦN MỞ ĐẦU KINH BÁT NHÃ

Tôi nghe như vầy: Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Đại Tỳ kheo, đều ở Tịnh xá Kỳ hoàn, trong vườn của ông Thái tử Kỳ Đà và ông Trưởng giả Cấp Cô Độc

Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực

Khất thực xong, Phât và chúng tăng đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rữa chân, rồi trải toạ cụ, ngồi yên tịnh. 

LƯỢC GIẢI 

Đây là những cử chỉ bình thường và rất đơn giản; nhưng đã tạo thành một bức tranh tuyệt diệu, nói lên được tinh thần "giải thoát vô trụ", để mở màn cho Phật nói kinh Bát Nhã

Chúng ta hãy định tâm, đọc kỹ lại một lần nữa, những câu sau này, thì chúng ta sẽ thấy bộc lộ rõ ràng tinh thần Bát Nhã (giải thoát vô trụ). 

"Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng 

"đều đắp y, mang bình bát vào thành 

"Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực

"Khất thực xong, Phât và chúng tăng 

"đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi 

"thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình 

"bát và rữa chân, rồi trải toạ cụ ngồi 

" yên tịnh

Vì ngộ được tánh "Bát Nhã giải thoát", trùm khắp trên muôn vật, nên Cổ nhơn có nói hai câu: 

Thanh thanh tuý trúc, tổng thị Chơn như 

Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã

Dịch nghĩa: 

Mướt mướt tre xanh, biểu lộ Chơn như

Mởn mởn hoa vàng, trình bày Bát Nhã

Ngài Thái hư pháp sư giảng: 

"Phật nói kinh này để chỉ rõ trong mỗi chúng sanh đều saün đủ bản thể Kim Cang Bát Nhã. Cái diệu dụng của Kim Cang Bát Nhã là làm cho hành giả khi tu Lục độ vạn hạnh, mà không trụ chấp các tướng. 

Người ngộ đưỡc Kim Cang Bát Nhã rồi thì đối với các pháp và mọi việc đều thông suốt vô ngại; những việc làm bình thường hằng ngày đều là Phật pháp, tạm bình thường đó cũng là Phật pháp cho đến đi, đứng, nằm, ngồi v.v...cũng đều là Phật pháp. Những việc thần thông biến hoá đều là diệu dụng vô thượng của chư phật đã đành, mà những nỗi mừng, vui, giận, ghét cũng là cái phương tiện hay khéo của phật pháp

Trái lại, nếu người chưa nhập được "Kim Cang Bát Nhã", dù có được thần thông biến hoá di sơn đảo hải đi nữa, thì cũng là tà thuật của yêu ma ngoại đạo, dù có thiền định muôm năm, cũng chỉ hưởng phước quả hữu lậu của cõi nhơn, thiên mà thôi; một mai nghiệp báo hết rồi, vẫn trở lại thọ khổ luân hồi trong lục đạo. Quí vị nên chín chắn nghĩ xét ! 

Kinh Kim Cang Bát Nhã, trong mỗi người đều saün đủ và khắp cả pháp giới. Nó không ở trong, không ở ngoài, không ở chính giữa và cũng không rời trong ngoài và chính giữa; không thể nghĩ bàn và cũng không trụ chấp được. Nếu người bền chí tu hành lâu dài, thì sẽ có ngày tự nhiên đốn ngộ. Trái lại, nếu người hướng ngoại tìm cầu, chấp rằng Phật có thần thông biến hoá v.v...phải có đủ như thế, mới phải là Phật. Những người chấp như thế, không thể phân biệt, giản trạch được thế nào là Phật pháp và thế nào là ngoại đạo. Than ôi ! nếu sai một hào ly, thì cách xa ngàn dặm ! Quí vị phải cẩn thận, rất cẩn thận !" 

(KIM CANG GIẢNG LỤC) 

GIẢI DANH TỪ 

TÔI NGHE NHƯ VẦY: trong trí Độ Luận có chép: "Khi Đức Như Lai sắp nhập Niết bàn ông Ưu Ba Ly nói với A Nan rằng:_ Ông là người giưgìn "Pháp tạng" của Phật, ông phải bạch Phật những điều cần yếu về sau. 

Ông Ưu Ba LyA Nan cùng nhau đến bạch Phật bốn điều: 

1. Tất cả các kinh của Phật, mở đầu nên đề chữ gì? 

2. Phật nhập diệt rồi lấy ai làm thầy? 

3. Nương nơi đâu mà trụ? 

4. Xá lợiy bát của Phật, phân như thế nào? 

Phật dạy: 

1. Mở đầu các kinh, hãy để "Như thị ngã văn" (tôi nghe như vầy). 

2. Ta nhập Niết bàn, các ông phải lấy "giới luật" làm thầy. 

3. Các ông phải trụ nơi pháp "Tứ niệm xứ" (quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã). 

4. Xá lợi của ta chia làm ba phần (một phần thờ tại nhơn gian, một phần thờ trên các cõi trời, một phần thờ dưới Long cung) còn y và bát truyền lại cho ông Ma Ha Ca Diếp

TỲ KHEO: Tỳ kheo là dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa có ba: 

1. Khất sĩ: Là kẻ đi xin: trên xin giáo pháp của Phật để nuôi thân, dưới xin vật thức để nuôi thân. 

2. Phá ác: Phá trừ các việc tội ác

3. Bố ma: Làm khủng bố các ma. 

NGỌ TRAI: Phật độ cơm đúng giờ ngọ (12 giờ trưa) nên gọi là "ngọ trai". Những thực phẩm cúng dường chư Tăng, trong giờ ngọ, thì gọi là "Trai Tăng" 

Y: Y phục của chư tăng, tức là áo Cà sa. Y phục của chư Tăng bằng vải, có nhiều loại: Không điều (mạn y), năm điều, bảy điều và chín điều v.v... 

BÌNH BÁT: Đồ đựng thức ăn của chư tăng, làm bằng sành v.v...lớn hay nhỏ tuỳ sức người dùng. 

TOẠ CỤ: Tấm vải để lót vải ngồi của Phật hoặc chư Tăng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12536)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10862)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10533)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11208)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12016)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13170)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13662)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11355)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12946)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13072)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11644)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17912)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11454)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11876)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11521)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18993)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12567)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13158)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15796)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11834)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11709)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12786)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12645)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13984)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13009)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12963)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13310)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12721)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11768)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11746)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12353)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12399)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19842)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12003)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16904)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12688)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15075)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16137)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12907)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12259)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11937)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11941)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13169)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16522)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13242)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12509)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11837)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19876)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11175)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11273)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10413)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11110)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10053)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11765)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant