Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 4

07 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7479)
Phần 4

KINH DI GIÁO LƯỢC GIẢI
Thích Viên Giác

 

Phần 4

Đ. Những Lời Khích Lệ và Giáo Huấn Cuối Cùng 

Phần này chia làm 3 tiết: tiết 1 lời khích lệ tổng quát, tiết 2 minh định giáo lý căn bản, tiêt 3 những lời giáo huấn cuối cùng

I. Khích Lệ Tổng Quát. 

Từ "các thầy tỳ kheo, đối với mọi thứ công đức...không phải lỗi của người dẫn đường": Kinh văn dạy: "Các thầy tỳ kheo đối với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường xuyên nhất tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc thù". Mọi thứ công đức là tất cả những công hạnh được đề cập từ đầu kinh cho đến cuối kinh, tất cả những công hạnh đó đều gom vào trong tam vô lậu học: Giới, Định và Tuệ. Những gì đức Phật dạy, ngài khuyến khích hãy nỗ lực hành trì đừng để thời gian trống rỗng và đừng để cho tâm phóng túng có cơ hội khởi lên, lấy chánh pháp làm chỗ nương tựa, tâm lý được bảo bọc bởi chánh pháp sẽ được an ổnthanh tịnh. Những lời nhắc nhở cuối cùng của Đức Phật không nhằm để tôn vinh vai trò đạo sư, cũng không xuất phát từ động cơ phát triển tôn giáo hay chủ thuyết của mình, mà chỉ vì lòng đại bi thương yêu chúng sinh, thương yêu đệ tử muốn cho họ được sớm thành tựu giải thoát. Mặt khác, lời nhắc nhở không phải là lời răn dạy của một vị thầy khó tính, muốn tạo một áp lực tâm lý để gây ấn tượng cho tương lai, Đức Phật như người cha thương con, trước bước đường chia ly mong con hiểu và đi đúng con đường mà cha đã đi, vì lợi ích chính người con. Kinh văn dạy: "thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói chánh pháp ích lợi một cách cứu cánh, các con chỉ có nỗ lực thực hành". 

Thực hành bằng cách nào? Và bắt đầu từ đâu? Đức Phật dạy: "Hoặc trong núi rừng, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại thọ, các thầy hãy ở một cách thư thái trong tịnh thất nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận, đừng để quên mất". Lời dạy này của Đức Phật tương ứng với lời dạy trong kinh tạng Pàli và Ahàm: "lựa một chỗ thanh vắng tịch mịch như núi rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Vị ấy ngồi kiết già lưng thẳng, an trú niệm trước mặt" (Tượng Tích Tiểu Dụ kinh, TBK). Vấn đề lựa chọn nơi chốn tu tập, một vài vấn đề cần đặt ra: 

1. Nếu một người mới vào đạo, chưa thuần thục trong giáo pháp, chưa thọ giới và chưa hành trì giới luật một cách đầy đủ thuần thục, như vậy đức hạnh chưa thành tựu, mà vội vàng tìm kiếm nơi vắng vẻ để tu niệm là một điều sai lầm nguy hiểm, vì lẽ tu tập thiền quán phải dựa trên cơ sở thành tựu giới học

2. Chọn nơi thanh vắng, tránh các ngoại duyên để chuyên tâm thiền quánhợp lý. Người xuất gia sống ở thành phố, hoặc ở gần nơi ồn ào náo nhiệt, sống với công việc, tranh đấu, rất khó tu tập. Tuy nhiên nếu biết sắp xếp công việc, tìm nơi yên tĩnh như một căn phòng nhỏ ở trên lầu chẳng hạn, vẫn có thể tu tập tốt mà không cần phải tìm chốn hoang vu

Phương pháp tu tập là "nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận". Nghĩa là có chánh niệm, thường quán chiếu các đối tượng thân thể, cảm giác, tâm tư và giáo pháp; hoặc quán sát tu tập 37 phẩm trợ đạo...điều quan trọng là đừng để quên mất", tức là tu không gián đọan, thường niệm chánh pháp. Có chánh pháp, nhớ chánh pháphành trì chánh pháp thì cuộc đời sẽ không trôi qua một cách vô ích, khỏi hối tiếc về sau. 

Đức Phật như vị lương y, giáo pháp như thuốc chữa bệnh, có lương y có thuốc, mà bệnh nhân không uống thì bệnh vẫn không lành, lỗi không phải do thầy thuốc mà do chính người bệnh, vì vậy Đức Phật dạy: "Như Lai như vị lương y biết bệnh và chỉ thuốc, còn uống hay không không phải là lỗi của lương y". Trong các kinh cũng thường gọi Đức Phậtđại y vương. Thí dụ Đức Phật như vị lương y rất thân thiết với đời sống con người vốn nhiều bệnh tật. Thí dụ Đức Phật như người dẫn đường cũng rất chính xác, kinh văn Phật dạy tiếp: "Lại như người dẫn đưòng rất tốt, chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi thì không phải lỗi của người dẫn đường". Lời giáo huấn rất thiết tha và nhân bản, con người là chủ nhân của chính mình, có thể tạo cho mình đời sống hạnh phúc hay khổ đau. Đức Phật không phải là một vị thần linh hay thượng đếquyền năng ban phúc hay giáng họa, hay ban cho mình sự giác ngộ. Tương tự Đức Phật đã dạy trong Trung Bộ kinh khi Bà la môn Ganaka Moggallana hỏi: "Do nhân duyên gì mà trong khi có sẵn Niết bàn, có bậc đạo sư dẫn dắt mà có người chứng quả có người không chứng qủa ? ". Đức Phật lấy ví dụ thành Vương Xá, có con đường đi đến thành, có người chỉ đường rành rẽ. Vậy mà có người đi lầm lạc, có người đi đến đích. Niết bàn cũng vậy, Như Lai chỉ là người chỉ đường đi đến Niết bàn (K.Ganaka Moggallana, TBK I) 

Lời khích lệ của Đức Phật đối với đệ tử rất thiết tha rõ rànghợp lý. Giáo pháp đã được dạy cần phải hành trì, đời sống ngắn ngủi đừng để trôi qua một cách vô ích. Phải tự mình nỗ lực tiến lên đừng ỷ lại vào ai, ngay cả chính Đức Phật, vì Đức Phật chỉ là người chỉ đường

II. Minh Định Giáo Lý Căn Bản 

Từ "Các thầy tỳ kheo đối với 4 chân lý...không còn hoài nghi gì nữa": Kinh văn Phật dạy: "Các thầy tỳ kheo đối với 4 chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp". Vấn đề nêu ra là Tứ diệu đế, trong kinh Du Hành (Trường Ahàm) cũng có đoạn tương tự: "này các tỳ kheo, các ông đối với Phật, Pháp, chúng Tăngchánh đạo có gì nghi ngờ nữa không? Ai nghi thì mau hỏi đi cho kịp thời, để sau này khỏi ăn năn, giờ đây ta vẫn còn mà giải quyết cho". 

Giáo lý tứ diệu đế được Đức Phật coi là căn bản nhất, cốt lõi nhất trong toàn bộ giáo lý đã dạy, vì vậy ngài chú trọng đến một cách đặc biệt. Giáo lý tứ đế này bao trùm hệ thống giáo lý Phật giáo, đúng như lời nhận xét của ngài Xá Lợi Phất: "Chư hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này là lớn nhất trong tất cả dấu chân về mặt to lớn. Cũng vậy chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứ Thánh Đế" (Tượng Tích Đại Dụ kinh). Vì tứ diệu đếcăn bản nên sự hiểu biết về tứ diệu đế rất quan trọng, liên quan đến pháp môn tu tập và tiến trình giải thoát. Vì vậy Đức Phật lặp lại, nhấn mạnh để xác định tầm quan trọng của giáo lý tứ đế, mặt khác giải quyết mhững gì còn hoài nghi, chưa rõ, tạo một niềm tin vững chắc đối với 4 chân lý này. Thượng tọa Chơn Thiện trong "Phật học khái luận" cũng nhấn mạnh: "Người học phật phải ý thức sâu xa rằng Tứ Thánh Đế chẳng những chỉ là giáo lý nền tảng mà là nền tảng nhất của các giáo lý nền tảng về mặt tôn chỉ" (PHKL T.206) 

Đức Phật hỏi 3 lần, không ai còn hoài nghi gì nữa, ngài A Nậu Lâu Đà xác định 4 chân lý sự thậtchân lý, không thể khác được, với những ví dụ sinh động: "Mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng 4 chân lýđức Thế Tôn đã dạy thì không thể làm cho khác đi được". Điều đó nói lên sự hoàn hảo về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn của 4 chân lý

Tác dụnghiệu quả của 4 chân lý đã đem lại niềm tin cho các đệ tử, vì vậy không có gì phải hoài nghi về 4 chân lý ấy. Suốt trong 45 năm hoằng pháp độ sinh giáo lý ấy đã được cọ xát, thử thách ở nhiều góc độ khác nhau. Chân lý bao giờ cũng là chân lý

III. Những Lời Giáo Huấn Cuối Cùng

Từ "Chư tăng lúc bấy giờ... những lời giáo huấn tối hậu của Như Lai": Những lời giáo huấn cuối cùng của phần này chia làm 3 phần: 

1) Đối với những đệ tử hữu học, khi thấy đức Thế Tôn sắp diệt độ thì xúc động, than thở bi cảm, đức Thế Tôn an ủi rằng: 

a- Sự có mặt của Đức Phật ở cõi đời này nếu kéo dài thêm nữa cũng phải đến lúc ra đi: "nếu Như Lai còn ở đời lâu đến một đại kiếp đi nữa thì sự kết hợp nào rồi cũng phải tan rã". 

b- Những gì cần làm thì đức Như Lai đã làm xong, sứ mệnh độ sinh đã hoàn tất, sống thêm ở đời cũng không lợi ích gì nữa: "Chánh pháp tự lợi, lợi tha đã có đầy đủ. Như Lai sống cho lâu cũng không còn lợi ích gì nữa". 

c- Các đệ tử hãy nỗ lực tu tập, hành trìĐức Phật của thân xác không còn nhưng Đức Phật pháp thân thì vẫn thường trú bất diệt: "Từ nay về sau đệ tử của Như Lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như Lai thường trú bất diệt".

2) Đức Phật giáo huấn về sự vô thường của thế giớicon người: "Các thầy tỳ kheo phải ý thức toàn bộ cuộc đờichuyển biến vô thường , có kết hợp thì có tan rã". Giáo huấn về sự vô thường của cuộc đời để khích lệ tinh thần thoát ly, đừng bám víu vào cuộc đời. Nhìn sự vô thường của cuộc đời, có hai thái độ xảy ra, một là vì cuộc đờivô thường nên tận dụng cơ hội để tu tập không để cho thời gian trôi qua một cách trống rỗng. Hai là vì cuộc đờivô thường nên vội vã hưởng thụ, sống buông thả không có trách nhiệm gì, thái độ thứ hai này là của hạng phàm phu không biết thánh đạo, không xu hướng thánh đạo. Đức Phật dạy cho hạng người thứ nhất: "Cuộc đời (vô thường) như thế, nên các thầy phải nỗ lực tinh tấn để sớm cầu tự độ đem ánh sáng trí tuệ để diệt trừ hắc ám vô minh". 

Về sự vô thường của thân thể, đức Phật dạy: "Như Lai diệt độ thì cũng như trừ được cơn bệnh khủng khiếp. Đây là một vật tội ác và đáng bỏ, giả hiện là thân thể mà lại chìm ngập trong biển già, bệnh, sống chết", thân thểvô thường, nếu không tu tập thì chính nó sinh nhiều tội lỗi, đối với bậc đã đắc đạo , thân thể vẫn là một gánh nặng sau cùng, vì sinh lý vật lý vẫn có những quy luật của nó. 

3) Đức Phật nhấn mạnh một lần nữa và đây là lời dạy sau cùng về bản chất của vũ trụ nhân sinh:"Hãy thường nhất tâm, nỗ lực ân cầu giải thoát. Toàn thể vũ trụ dầu pháp biến động hay không biến động đều là trạng thái bất an và tan rã". Ngài tuyên bố đây là giáo huấn tối hậu của Như Lai. Biến động và không biến động là tất cả trạng thái động và tĩnh của thế gian, cũng có nghĩa tất cả pháp hữu vi. Lời dạy cuối cùng này cũng phù hợp với lời dạy cuối cùng trong kinh trường Ahàm: "Tất cả vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của Đức Như Lai "(kinh du hành). 

Lời cuối cùng thoát lên một ánh chớp trí tuệ, khái quát bản chất đích thực của đời sống, cũng như ánh chớp loé lên của lưỡi kiếm trí tuệ chặt đứt mọi chấp thủ, mọi bám víu, mọi ảo tưởng về cuộc đời ./. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19861)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28968)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19445)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30503)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36429)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33235)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35571)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20990)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21925)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25799)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31266)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18565)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25146)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23774)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28944)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20867)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25552)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29724)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22527)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23286)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25750)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23726)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40616)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22453)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22101)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23511)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16971)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23289)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24317)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41110)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18997)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20493)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27730)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38126)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34079)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36789)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24004)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29197)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60162)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68749)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24537)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24502)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22719)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26362)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26550)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20825)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20065)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27555)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46442)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53586)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23617)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25580)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29269)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant