Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10 Phẩm Phật Hương Tích

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6608)
10 Phẩm Phật Hương Tích

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

10. Phẩm PHẬT HƯƠNG TÍCH

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất, đại diện cho hàng Thanh Văn đệ tử hãy còn phân biệt thời gian, thấy gần đến giờ ngọ là nghĩ đến việc ăn trưa. Các tu sĩ Nam Tông giữ giới luật ăn ngày một bữa trước giờ ngọ, nếu lỡ quá ngọ chưa ăn thì phải nhịn luôn. Còn các tu sĩ Bắc Tông thì uyển chuyển hơn, quá ngọ ăn cũng được, hoặc ăn ngày hai hoặc ba bữa cũng được, không phải là tham ăn, chỉ do thói quen và để giữ sức khỏe mà thôi. 

Ông Duy Ma Cật muốn làm lợi ích giúp cho hàng Thanh Văn được biết mùi vị giải thoát bèn nhập chánh định, dùng sức thần thông hiện bày cho đại chúng thấy rõ cảnh giới phương trên có nước Phật tên là Chúng Hương, Đức Phật hiệu là Hương Tích, nước ấy không có Thanh VănBích Chi Phật, chỉ có Bồ Tát thanh tịnh được Phật nói pháp cho nghe. Tất cả nhà lầu, vườn hoa, ruộng đất, cơm nước đều do chất hương thơm tạo thành. Ông Duy Ma Cật hóa phép ra một vị Bồ Tát và sai bay lên nước Chúng Hương xin cơm thơm về cho mọi người ăn. 

Nếu cứ theo nghĩa đen, chữ đâu nghĩa đó, thì ở phương trên có nước Chúng Hương, có Phật Hương Tích, có các Bồ Tát, có cơm thơm, không có hàng Thanh VănBích Chi Phật. Theo nghĩa bóng thì các Thanh Văn cần chuyển tâm niệm hẹp hòi cầu pháp nhỏ biến thành Tâm Bồ Đề, bỏ vật chất thế gian để được của báu xuất thế gian, bỏ giường ghế để được ngồi tòa sư tử, bỏ cơm gạo thường để được ăn cơm thơm Chúng Hương, bỏ lòng cầu Niết Bàn cho riêng mình để phát tâm Bồ Đề cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hành Bồ Tát Đạo lợi ích chúng sinh

Nước Chúng Hương thanh tịnh thơm tho nhẹ nhàng vì được tạo thành bằng các hương thơm, trái với cõi Ta Bà nặng nề nhơ uế vì do vật chất làm ra. Cõi Ta BàThanh VănBích Chi Phật còn ham pháp nhỏ tu theo Tiểu Thừa, được ít cho là đủ, còn nước Chúng Hương chỉ có hàng Bồ Tát thanh tịnh được Phật dạy bảo, ý kinh muốn đưa ra sự so sánh hai cõi để chuyển tâm hàng Nhị Thừa hướng về Nhất Thừa Phật Đạo. 

Chỗ khéo léo của Kinh này là không muốn làm hàng Thanh Văn hổ thẹn vì lỡ ham pháp Tiểu Thừa, nên Bồ Tát Văn Thù nói đỡ: “Chớ nên khinh người chưa học”. Nếu làm quý vị Thanh Văn xấu hổ quá thì họ sẽ bỏ đi rất uổng nên Bồ Tát Văn Thù phải nói khéo để gỡ danh dự cho họ, rồi phương tiện hướng dẫn vào Phật Đạo. Trong Kinh Pháp Hoa, khi Phật thuyết giáo lý Đại Thừa, quy ba thừa về một thừa, có năm ngàn Tỳ Kheo bỏ đi. Nhưng ở đây, Ngài Văn Thù cố giúp hàng Thanh Văn chuyển tâm theo Đại Thừa. Cũng một ý đó, Đức Phật Hương Tích căn dặn các Bồ Tát nước Chúng Hương phải tạm giấu thân hương thơm tho tốt đẹp, chớ để chúng sinh cõi Ta Bà sinh tâm mê đắm và tự hổ thẹn. Vì sao? Đức Phật muốn hóa độ những người ưa pháp nhỏ nên hiện ra cõi Ta Bà ô trược hầm hố xấu xa, chứ mười phương cõi nước đều như hư không, vô phân biệt. Đức Phật biết rành tâm lý, không muốn hàng Thanh Văn buồn thẹn mà mong họ thấy cõi Phật Chúng Hương đẹp đẽ mà khởi lòng tu theo Đại Thừa

Phật Hương Tích lấy cái bát ở nước Chúng Hương đựng đầy cơm thơm trao cho Hóa Bồ Tát, vị này cùng chín trăm vạn Bồ Tát ở nước Chúng Hương biến hình, trong khoảnh khắc về đến nhà ông Duy Ma Cật. Ông này hóa hiện ra chín trăm vạn tòa sư tử để mời các Bồ Tát ngồi. Vị Hóa Bồ Tát đem bát cơm thơm dâng lên ông Duy Ma Cật, mùi thơm xông khắp thành Tỳ Xá Li và cả cõi tam thiên đại thiên thế giới

Chín trăm vạn Bồ Tát ngồi trên tòa sư tử trong nhà ông Duy Ma Cật mà không thấy chật hẹp vì đây là nói về Bản Thể dung thông vô ngại, vượt qua mọi hình tướng vật chất nên không có rộng chật gì cả, mười phương thế giới nằm trong hạt cải mà vẫn hiện đủ núi non sông biển. Vì không có vật chất nên không chướng ngại. Thí dụ: chụp hình mặt trăng vào trong tấm ảnh nhỏ xíu mà phong cảnh mặt trăng hiện ra đầy đủ. Chúng ta nghĩ tới quê hương thì hình ảnh núi đồi sông ngòi nhà cửa hiện ra trong tâm thức, những hình ảnh đó đều dung thông vô ngại

Trưởng Giả Chủ là người đứng đầu các vị trưởng giả làm chủ tể cai trị nhân dân trong thành. Nguyệt Cái là tên ông ta, mà cũng có ý nghĩa là cái lọng (bảo cái) hình tròn như mặt trăng dùng để che mưa nắng bụi bậm không làm khó chịu bậc tôn quý. Trưởng Giả Chủ Nguyệt Cái đem theo tám vạn bốn ngàn người đến đảnh lề các Bồ Tátđại đệ tử, là có ý tượng trưng cho việc các chúng sinh đã phát tâm quy y Tam Bảo, tuân thủ giáo lý Đại Thừa. giáo lý này tròn trặn đầy đủ, hoàn toàn viên mãn, có công năng che chở chúng sinh khỏi bị nhiễm ô, ví như cây lọng báu che các vị Vua quan quyền quý

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo Ngài Xá Lợi Phất và các đại đệ tử Thanh Văn lấy cơm thơm mà ăn, dùng cơm vị cam lồ của Như Lai do đại bi huân tập, đừng đem ý có hạn lượng mà ăn thì không tiêu được. Có các Thanh Văn khác nghĩ rằng cơm này ít lắm mà đại chúng ngưởi nào cũng phải ăn. Làm sao cho đủ ? 
Đây là các vị Thanh Văn còn chấp tướng, phân biệt cơm ít người nhiều, còn ông Duy Ma Cật đứng về Thể Tánh mà bảo: đừng đem ý có hạn lượng mà ăn thời không tiêu được. Vị Hóa Bồ Tát cũng nói: Chớ đem trí hẹp đức nhỏ của Thanh Văn mà so lường phước huệ vô lượng của Như Lai

Rõ ràng là đoạn này muốn đưa người đang tu theo giáo lý Tiểu Thừa bước sang Đại Thừa, muốn hướng dẫn hàng Thanh Văn vào Bồ Tát Đạo. Đừng có ý hạn lượng phân biệt thì cơm mới tiêu, thì mới kham được pháp lớn, thì mới bỏ tướng trạng mà nhập Bản Thể Chân Như vô cùng vô tận. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, ngườì ăn no đủ mà cơm vẫn còn, thân thể nhẹ nhàng vui vẻ, các lỗ chân lông thoảng ra mùi hương thơm. 

Có một bát cơm mà tất cả chúng hội mấy trăm vạn người ăn no đủ mà vẫn còn, người ăn lại cảm thấy thân thể nhẹ nhàng vui vẻ, các lỗ chân lông thoảng ra mùi hương thơm thì thật là huyền diệu nhiệm mầu, nhất định không phải là loại cơm gạo vật chất để nuôi thân, mà là cơm gạo tinh thần để nuôi tâm, trưởng dưỡng phát huy Tâm Bồ Đề. Vì không phải vật chất nên không có hạn lương, vì thuốc tâm linh nên ảnh hưởng lan rộng cao xa, mùi vị của Đạo thấm vào tâm hồn khiến mọi người cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát, lâng lâng thoát tục, mình được hưởng Pháp vị rồi lại muốn đem Pháp vị cho người khác, nên các lỗ chân lông thường ra mùi hương thơm, các loài chúng sinh khác cũng được ngửi mùi hương đó. Người xưa có hai câu thơ để diễn tả Đạo vị

Quế hương bất viễn thư hương viễn, 
Thế vị vô như Đạo vị trường. 

nghĩa là mùi hương của quế không thoảng xa bằng mùi thơm của sách vở, vị ngon ngọt của đời không kéo dài lâu xa bằng mùi vị của Đạo Đức

Cơm thơm của Phật Hương Tích ban cho chúng hội trong nhà ông Duy Ma Cật chính là Pháp Thực, là Thiền Duyệt Thực là món ăn tinh thần để nuôi dưỡng phần tâm linh, chúng ta nghe một bài pháp say sưa quên đói, ngồi thiền cảm thấy no đủ sung sướng, mà Pháp và Thiền thì rộng rãi vô cùng, bao nhiêu người nghe, người tu cũng đầy đủ, không thiếu. Pháp, Thiền, Đạo, sách vở kinh điển... đều là những món ăn tinh thần cần thiết giúp người tu mở mang trí huệ, tự giác giác tha. Mình được ăn rồi, nếm rồi, nghe rồi thì phải mời người khác cùng hưởng Pháp vị như mình. 

Đoạn kinh sau đây so sánh lối nói pháp ở hai cõi Chúng Hương và Ta Bà. Cõi Chúng Hương ở trên cõi Ta Bà cách xa 42 số cát sông Hằng cõi Phật, nhẹ nhàng siêu việt hơn cõi Ta Bà nhiều, cho nên Đức Phật Hương Tích không cần dùng ngôn ngữ văn tự để nói, mà chỉ dùng các mùi hương thơm khiến các Trời người vâng giữ luật hạnh (giữ gìn giới luật, không làm việc ác, chỉ làm hạnh lành). Các Bồ Tát cõi đó chỉ việc ngồi dưới cây hương, ngửi mùi hương thơm mầu nhiệm là được Tam Muội Nhất Thiết Đức Tạng, nghĩa là được chánh định đầy đủ tất cả mọi công đức. Ý kinh muốn nói chúng sinh cõi Chúng Hương nghiệp nhẹ nên chi cần ngửi mùi hương là phát tâm tu hành. Tâm Phậtchúng sinh dễ dàng cảm thông

Còn chúng sinhcõi Ta Bà thì nghiệp nặng, cang cường khó giáo hóa, cứng đầu cứng cổ, nên Đức Phật Thích Ca phải phương tiện dùng lời nói cứng rắn mạnh mẽ để điều phục họ. Đây là các phương pháp giáo hóa khác nhau mà chư Phật áp dụng tùy từng cõi. Chúng sinh dễ dạy thì dùng phương pháp nhẹ nhàng dịu ngọt, chúng sinh khó dạy thì dùng phương pháp oai dũng nặng nề như trách mắng đe dọa, nhưng tất cả mọi phương pháp đều cùng một mục đíchchỉ đường dẫn lối chúng sinh về nẻo giác. Ở cõi Ta Bà uế trược, Đức Phật cho thấy có ba cõi sáu đường, có luật nhân quả luân hồi chi phối, để chúng sinh sợ hãi nhàm chán, rồi Ngài dạy quy y giữ giới, làm lành lánh đữ, điều phục thân miệng ý, so sánh phân biệt tội phước, hữu lậu với vô lậu, thế gian với Niết Bàn... Tuy biết rằng phân biệt như vậy là không đúng với Chân Lý Bình Đẳng Nhất Như, nhưng Đức Thế Tôn ẩn cái sức tự tại vô lượng của Ngài mà dùng phương tiện tùy theo sở thích của người nghèo hèn để độ thoát chúng sinh: Phật biết chúng sinh ưa gì thì cho nấy, lúc đầu chúng ưa pháp nhỏ, được Hữu Dư Y Niết Bàn đã cho là đủ, nay đã đến thời cơ đem pháp lớn dạy người tu hành tiến tới chỗ giác ngộ rốt ráo. Kinh Pháp Hoa đưa ra thí dụ Hóa Thành là cùng một ý nghĩa như vậy. 

chúng sinh cõi Ta Bà phước mỏng nghiệp dầy, khó bảo khó dạy, nên các Bồ Tát phải dùng sức phương tiện chịu khổ sở nhẫn nhục, dùng lòng đại bi vô lượng thị hiện sinh vào cõi này, ẩn giấu thân tướng to lớn cao đẹp và hiện ra thân hình bé nhỏ xấu xa, thật là mộl sự hy sinh rất lớn lao mà chỉ các Đại Bồ Tát mới làm được. Tuy nhiên, các Bồ Tát ở cõi này làm lợi ích cho chúng sinh trong một đời còn hơn trăm ngàn kiếp tu hành ở các cõi khác, vì sao? Vì chúng sinh cõi Ta Bà có nhiều thói hư tật xấu để Bồ Tát dạy dỗ, chúng sinh các cõi khác không có tật xấu thì Bồ Tát lấy ai mà cứu độ? Đúng vậy, có người nghèo đói thì mình mới có cơ hội bố thí, có người giận dữ thì mình mới có cơ hội tu nhẫn nhục, có người loạn động thì mình mới có cơ hội dạy họ tu thiền định, có kẻ ngu si thì mình mới có cơ hội khuyên họ tu trí huệ, có người ưa pháp Tiểu Thừa thì mình mới có dịp đem giáo lý Đại Thừa ra thuyết giảng... còn ở các cõi Tịnh Độ khác, dân chúng đều thanh tịnh tinh tấn tu hành thì các Bồ Tát không có duyên lành giáo hóa, thiếu mục tiêu làm việc lợi tha

Bồ Tát cần nương chúng sinh để được sinh về cõi Tịnh Độ, cần hóa độ chúng sinh để hoàn mãn nguyện lớn tiến lên quả vị Phật. Muốn vậy, các Bồ Tát cần thành tựu tám pháp lành: 

1) Làm lành mà không mong báo đáp (vô cầu). 
2) Gánh chịu khổ não cho chúng sinh (từ bi). 
3) Ban công đức cho chúng sinh (hỷ, xả, lợi tha). 
4) Dưới khiêm nhường chúng sinh, trên cung kính Bồ Tát (trên kính, dưới nhường, hạ mình đối đãi bình đẳng, không ngăn ngại). 
5) Cầu học những điều chưa biết (tiến tu, không nghi ngờ). 
6) Không chống trái với hàng Thanh Văn (không khinh chê người tu kém, dùng phương tiện dắt dẫn họ tiến thêm). 
7) Không ganh ghét tật đố, không khoe mình chê người (điều phục tâm). 
8) Trách mình, tha thứ cho người (hướng nội tự tu, hướng ngoại lợi tha), nhất tâm cầu công đức (hướng về giác ngộ giải thoát, không mong phước đức thế gian). 

Đây là tám phương pháp mà các Bồ Tát và tất cả những ai tu hạnh Bồ Tát Đại Thừa cần phải thực hành, tựu trung vẫn là phá ngã chấppháp chấp, phát triển từ bi hỷ xả, lợi tha, không khinh chê kẻ có tội hay người tu còn kém, thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sinh, điều phục tâm mình, chỉ tự trách mà còn tha thứ cho người, chỉ nhìn lỗi mình không thấy lỗi người, có được chút công đức gì thì chia xẻ cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật Đạo. 

Sau khi được nghe ông Duy Ma Cật và Ngài Văn Thù nói pháp mầu, trong đại chúng có trăm ngàn Trời người phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, những hạng Trời người này trước chỉ tu phước hoặc mong cầu Niết Bàn của Tiểu Thừa, nay tỉnh ngộ phát tâm tu theo Đại Thừa

Mười ngàn Bồ Tát chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn: Các Bồ Tát mới phát tâm được nghe Chánh Pháp cao siêu nhiệm mầu, trí huệ sáng soi, diệt trừ được vi tế vô minh, chứng quả vô sinh bất thối chuyển, thẳng tới quả vị Phật. 

Mật ý của phẩm này là đề cao sức oai thần của các vị Đại Bồ Tát mà từ trước các hàng Thanh Văn, Trời người chưa thấy chưa biết, sự hiểu biết của họ còn nông cạn, như những người mù sờ voi, chỉ biết một phần sự thật mà thôi. Ông Duy Ma Cật xin cơm thơm ở nước Chúng Hương bên trên đem về cho hàng Thanh Văn, Trời người ăn, có ý nghĩa là đem Chân Lý cao siêu huyền diệu tột cùng ra chỉ dạy để dắl dẫn người tu tiểu Thừa hoặc tu phước, nay chuyển sang Đại Thừa, hướng về giác ngộgiải thoát cho tất cả chúng sinh. Nhờ cơm mà chúng sinh no, nhờ pháp Đại Thừachúng sinh được giải thoát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15660)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16368)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23541)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17435)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81262)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19572)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20169)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47406)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39132)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15807)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23162)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19233)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15128)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16756)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 12988)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13119)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48954)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23245)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19348)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17148)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32049)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27442)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14302)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14753)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18580)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16381)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13890)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17238)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19360)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 27994)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14369)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16927)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22152)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23289)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 27987)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64749)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33188)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40159)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25088)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50195)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38503)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27309)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28547)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52191)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35835)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32886)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50793)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74867)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36114)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48971)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31001)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33914)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28872)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58804)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46247)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43799)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43198)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45904)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48014)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63708)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant