Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5 Phẩm Văn Thù Sư Lợi

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6811)
5 Phẩm Văn Thù Sư Lợi

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

5. Phẩm VĂN THÙ SƯ LỢI

Lúc bấy giờ, Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi đi thăm bệnh. Ngài bạch: “Bực Thượng Nhân kia khó bề đối đáp vì đã thâm đạt Thật Tướng, khéo nói pháp mầu, trí tuệ vô ngại, biện tài thông suốt. Tuy thế, con xin vâng lời Phật đến thăm bệnh ông.” 

Văn Thù Sư Lợi, phiên âm chữ Phạn Manjusri, dịch nghĩa là Diệu Đức đầy đủ ba đức lớn: Tín, Hạnh, Trí, thường được gọi là Đại Trí Văn Thù vì Ngài đã chứng được thật trí, liễu ngộ Phật Tánh, là bậc Thượng Thủ trong hàng Bồ Tát. Tất cả các đại đệ tửBồ Tát không dám tới thăm bệnh Cư Sĩ Duy Ma Cật vì ông đã thâm nhập kho tàng bí mật của chư Phật tượng trưng cho Căn Bản Trí hoặc Vô Sư Trí, Đức Di Lặc chuyên về Duy Thức cùng các vị khác không đủ trí huệ để đối đáp, chỉ có Ngài Văn Thù Sư Lợi đã chứng Hậu Đắc Trí hoặc Hữu Sư Trí mới kham lãnh nhiệm vụ đi thăm bệnh, mới đủ tài đối đáp với ông Duy Ma Cật

Đây là cuộc đối thoại đấu lý cao siêu tuyệt vời giữa hai vị chứng ngộ Phật Tánh, chuyển Thức thành Trí, rời tướng nhập Tánh, nên các Bồ Tát, Thanh Văn đệ tử, Trời người rất đông cung kính đi theo Ngài Văn Thù vào thành Tỳ Xá Li, đến nhà Cư Sĩ Duy Ma Cật. Vị này biết được liền dùng sức thần thông làm cho trong nhà trống rỗng không có đồ đạc gì, không có thị giả hầu hạ, chỉ để một cái giường ông nằm. Cư sĩ lên liếng chào khách: “Quý hóa lắm, Ngài Văn Thù tới thăm bệnh. Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy.” Bồ Tát Văn Thù đáp: “Phải đấy, Cư Sĩ . Nếu đã đến tức là không đến, nếu đã đi tức là không đi.” 

Phẩm này nói về bệnh của thân, nhưng thâm ý là muốn dạy chúng sinh điều trị bệnh của tâm, điều phục tâm. Dẹp bỏ các đồ đạc không có người hầu hạ, chỉ còn mộl cái giường, là ý muốn nói dẹp hết các phiền não, các tư tưởng chấp trước, cho đến các niệm thiện (thị giả) cũng không giữ, chỉ còn lại Tâm thanh tịnh mà thôi. Nếu còn phân biệt thiện ác là chưa được Nhất Tâm. Vừa gặp mặt nhau, sau câu chào thường lệ, Cư Sĩ Duy Ma Cật đã mời quý khách nếm ngay Pháp vị: Tướng thì không mà Tánh thì thật, thân người tuy không thậtvẫn có tới lui đi đến, con mắt tuy giả huyễn mà vẫn trông vẫn thấy. 
Đứng về Pháp Tánh hay Thật Tướng thì tất cả là Không, Bồ Tát biết là giả huyễn, nhưng chúng sinh thấy là có. Đoạn này giống Kinh Kim Cang phá chấp các tướng trạng bên ngoài mà chỉ thẳng Thể Tánh bên trong, tuy Tánh là Không nhưng thân tướng vẫn có đến đi tới lui, mắt tuy vô ngã nhưng vẫn trông thấy. Đứng về tướng thì có thân người đi từ chỗ này đến chỗ khác, có mắt thấy mọi sự vật, nhưng đứng về Tánh thì tất cả quy về Một, chẳng có không gian rộng lớn mà cũng chẳng có thời gian lâu dài, Kinh Hoa Nghiêm nói: Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất. Một trong mười tôn hiệu của Đức PhậtNhư Lai, do câu Vô Sở Tùng Lai Nhi Vô Sở Khứ, nghĩa là không từ đâu mà lại, không đi tới chỗ nào, chẳng đi chẳng lại thì gọi là Như Lai

Quốc Sư Đại Đăng nói với Nhật Hoàng Hậu Đề Hồ: “Ta xa nhau từ vô lượng kiếp mà vẫn chưa hề rời nhau chốc lát. Ta đối mặt nhau suốt ngày mà chưa hề gặp nhau lần nào.” Giáo lý nhà Phật trình bày trong Kinh Duy Ma Cật có nhiều chỗ tưởng là phi lý nhưng đó chính là vấn đề vạn thù sai biệt nhưng vẫn đồng nhất thể, Phật Giáo dùng giáo lý vô niệm vô tâm Bát Nhã để nghĩ tới cái không nghĩ được, để phân biệt cái không phân biệt được, đi tới sự thăng hoa tột cùng là Ngộ (Satori), đó là tinh thần vô phân biệt, không chia cắt thời giankhông gian, mà chỉ thấy tất cả mọi sự mọi vật dung thông trong một điểm duy nhất gọi là Đương Xứ. Cần vượt qua các hàng rào của tri thức, các quan niệm hẹp hòi để vươn lên tới Trí Huệ Bát Nhã vô cùng tận, lúc đó thì núi chẳng phải là núi nữa, nước chẳng phải là nước nữa, mà núi vẫn là núi, nước vẫn là nước, Thiền Sư Bách Trượng đã thấy được như vậy. Đừng chấp vào danh từ ngôn ngữ là các ước lệ do tri thức tạo nên mà do quán sát mọi vấn đề trên một bình diện cao rộng hơn, siêu việt hơn, thân chứng đến chỗ không còn lời nói mà chỉ có cành hoa sen Phật đưa lên, Ngài Ca Diếp mỉm cười thông cảm, thế là xong. 

Tướng không đến mà đến: đứng về Tánh thì thân người không thật có, là giả huyễn, nhưng đứng về Tướng thì vẫn có thân người tới lui. Đây là phá ngã chấp, đề cao Ngã Không. Tướng không thấy mà thấy: đứng về Tánh thì con mắt (tượng trưng cho tất cả sáu căn) là vô ngã vô thường không thật, nhưng đứng về Tướng thì con mắt vẫn thấy, sáu căn hay sáu giác quan vẫn thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, phân biệt, sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp vẫn có, nhưng là giả huyễn, đây là phá pháp chấp, đề cao Pháp Không

Cư Sĩ Duy Ma Cật đưa ra câu chào dựa trên lập trường Thể Tánh, Ngài Văn Thù dùng Thật Tướngđáp lại: “Phải đấy, thân người sinh ra thật không từ đâu đến mà mai đây ra đi thật chẳng đi về đâu.” Đoạn này so sánh Pháp Thân với nhục thân. Xác thân mắt phàm thấy được là giả huyễn, không thật có, vô thường vô ngã, còn Pháp Thân mắt phàm không thấy lại là chân thật, thường trụ. Ngài Văn Thù thay mặt Đức Phật hỏi thăm bệnh cư sĩ nhân đâu mà sinh ? Ông Duy Ma Cật đáp: Chúng sinh có nhục thân nên có bệnh, nhục thân là do si ái mà sinh ra; đây là thuyết Mười Hai Nhân Duyên, Si (Vô Minh) là nhân quá khứ sinh ra quả hiện tại là nhục thân, ái là nhân hiện tại sinh ra quả tương lai (luân hồi sinh tử). Chúng sinhsi ái mà chịu nhân quả luân hồi trong ba cõi sáu đường, Bồ Tát vì lòng Đại Bi thương xót chúng sinh, vì trực nhận được lý Vạn Vật Đồng Nhất Thể, nên chúng sinh đau bệnh thì Bồ Tát cũng đau bệnh, Bồ Tát phải ở trong cõi Ta Bà gần gụi chúng sinh, thông cảm đau bệnh để tìm phương cứu độ. Chỉ khi nào chúng sinh hết bệnh si ái thì Bồ Tát mới khỏi phải tới lui giúp đỡ. Vì muốn cứu độ chúng sinh nên Bồ Tát phải thị hiện làm chúng sinh, giống như chúng sinh cũng có thân có bệnh, có già, có chết, để thân cận chúng sinh, vì đồng loại đồng cảnh thì dễ dàng thông cảm cứu vớt. Đó là Tâm Đại Bi, đồng nhất thể, vô phân biệt. Ví như mẹ hiền thương con, vì con có bệnh nên mẹ lo lắng chăm sóc hao mòn sức khỏe, chỉ khi nào con hết bệnh thì mẹ mới khoan khoái an vui. Bệnh của mẹ là tình mẫu tử thương con, bệnh của Bồ Tát phát nguồn từ lòng Đại Bi vậy. 

Nhà trống rỗng không có đồ đạc, không có thị giả hầu hạ: Muốn hết bệnh phiền não thì phải biết mọi sự vật là giả, không thật có, các Bồ Tát biết các pháp như huyễn vì các Ngài đã tỉnh giác, ra khỏi giấc mộng dài, còn chúng sinh thấy các sự vật là có thật, được thì vui mất thì buồn. Các Bồ Tát không cần đồ đạc, thị giả nên tâm được giải thoát. Chúng sinh còn nằm mộng, không đến mà thấy đến, thí dụ: nằm mơ thấy đến Việt Nam, tỉnh dậy không thấy đến đó. Không thấy mà thấy, cũng đồng nghĩa như vậy, thí dụ: nằm mơ thấy cảnh Chợ Bến Thành, tỉnh dậy không thấy gì cả. Chúng sinh thấy đẹp xấu, thiện ác, ưa ghét... là tùy theo nghiệp lực vọng tưởng, ghét ai thì đẹp cũng cho là xấu, yêu ai thì ác cũng bảo là lành. Cái thấy của chúng sinh bị lệch lạc. Bồ Tát thấy bằng con mắt trí huệ bình đẳng vô sai biệt, nhìn suốt qua hình tướng vô thường để thấy cái thể bất sinh bất diệt

Cư Sĩ Duy Ma Cật đứng trên lập trường giác ngộ mà nói, không đồ đạc, không thị giả, vì cõi Phật vốn Không, vô ngã, vô pháp. Tâm đã thanh tịnh thì không phân biệt, không tật đố phiền não. Muốn được như vậy, phải lấy không làm không, phải buông xả tất cả mọi quan niệm yêu ghét, không còn chấp một tí gì nữa, hết chấp ngã chấp pháp thì tâm mới không phân biệt. Còn Ngài Văn Thù, tuy cũng đồng ý như vậy, nhưng thôi nói việc đó, hãy nói việc bình thường, nếu cứ nói hoài những việc cao siêu thì dễ chán, không hợp hoàn cảnh, nên nói chuyện thực tế thường ngày, không xa rời đời sống. Bệnh Cư Sĩ nhân đâu mà sinh? Làm sao hết bệnh? Cư Sĩ Duy Ma Cật đáp: “Vì si mê ái dục mà có bệnh. Vì chúng sinh bệnh nên tôi bệnh. Khi nào chúng sinh hết bệnh thì tôi lành.” 

Bồ Tát quên mình để cứu độ chúng sinh, thân cận chúng sinh để giúp đỡ, chúng sinh ở đâu thì Bồ Tát tới đó, chúng sinh bệnh nên Bồ Tát bệnh. Nhưng khác nhau ở một điểm là chúng sinhsi ái mà bệnh, còn Bồ Tát vì lòng Đại Bi nên bệnh theo, không rời bỏ chúng sinh. Bồ Tát Địa Tạng phát nguyện lớn: Địa ngục chưa rỗng, thề không thành Phật, chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ Đề

Để giải quyết lòng nghi của mọi người khi thấy nhà trống rỗng, tuy đã chứng lý Không, nhưng Ngài Văn Thù cứ hỏi để ông Duy Ma Cật giải thích: Nhà ông trống rỗng vì cõi Phật vốn vẫn trống không, vô phân biệt, vô ngã vô pháp. Muốn đạt tới cái Không đó tức là muốn được giải thoát thì nào phải tìm đâu xa, mà chính tìm ngay nơi tâm hạnh của chúng sinh. Vì sao? Phải tìm nước trong ở nơi nước đục, tìm giải thoát nơi triền phược trói buộc, tìm giác ngộ nơi vô minh. Bồ Tát lìa chúng sinh thì làm sao thực hành lòng đại bi, đổ nước đục đi thì đâu ra được nước trong? Cứ gạn bỏ bùn cấu thì được nước trong, cứ hoán cải tâm tánh thì chúng sinh thành Phật (Tâm, Phật, chúng sinh tuy ba mà không khác nhau). Hễ mê là đọa lạc, là chúng sinh, cứ giác là giải thoát, là Phật. Kinh sách có câu: Hối đầu thị ngạn (quay đầu lại là bờ, bờ bên kia, bờ giải thoát). Chỉ cần quay đầu là rời bỏ hàng ngũ ma quỷ để tiến về quê cũ là cõi Phật

Đó cũng là ý nghĩa câu tìm Không ở trong 62 món kiến chấp là những tà kiến chấp trước sai lầm của ngoại đạo. Người tu Bồ Tát Đạo phải học những chấp trước đó, học để hiểu biết không còn rơi vào những sai lầm đó, cứ sống và học những kinh nghiệm của thế tục nhưng không đắm nhiễm mà vượt lên trên, vượt qua tất cả mọi việc trong đời, không chấp là được. Cứ sống ở đời mà không để đời lôi cuốn nhận chìmđược giải thoát. Pháp giải thoát phải tìm nơi chúng sinh

Tất cả chúng ma và ngoại đạo đều là thị giả. Ma là những chúng sinh đắm say dục lạc, không chán sinh tử, ưa làm chướng ngại người tu hành. Còn ngoại đạo là những người nhiều kiến chấp vọng tưởng, người đi tìm Chân lý ở ngoài tâm, hướng về ngoại cảnh. Thông thường, các vị trưởng lão Hòa Thượng có một người đệ tử hầu cận giúp việc, gọi là thị giả, cũng tu hành chân chánh, thầy trò giống nhau. Ở đây, thị giả của Cư Sĩ Duy Ma Cật lại là chúng ma và ngoại đạo, họ gây chướng duyên nhưng lại là trợ duyên để Bồ Tát thực hành lòng Đại Bi. Thật vậy, nếu không có người trêu chọc, mình đâu có cơ duyên tu nhẫn nhục, nếu không có người quyến rũ, mình đâu có cơ hội quán thân bất tịnh, nhiếp hộ sáu căn ? Do đó chúng ma và ngoại đạo giúp Bồ Tát tu Lục Độ Vạn Hạnh, Bồ Tát làm chủ được Tâm ví như ông chủ sai khiến chúng ma và ngoại đạo là người giúp việc, Tâm không động thì dục lạckiến chấp không lôi cuốn được, nếu khéo điều khiển thì những kẻ ác lại là những ngườì giúp việc đắc lực

Cùng ở trong đời, nhưng chúng sinh ưa làm các việc ác, chìm đắm trong luân hồi sinh tử, còn Bồ Tát chỉ làm các việc lành, thị hiện sinh tử chứ thật ra các Ngài đã ra khỏi vòng luân hồi. Chúng sinh giữ 62 món kiến chấp, còn Bồ Tát giữ Tâm không động niệm, khác nhau ở chỗ đó mà thôi. Bồ Tát vào đời để độ đời, nếu không vào thì làm sao cứu giúp chúng sinh, vào đời mà không kẹt ở đời, chúng sinh chính là mục tiêu, là đối tượng của Bồ Tát thực hành lợi tha. Bệnh của Cư Sĩ Duy Ma Cật do lòng Đại Bi nên chẳng do thân hay do tâm, nên hiểu chữ tâm ở đây có nghĩa là vọng thức chứ không phải Chân Tâm. Thân thì sinh diệt vô thường, tâm thì như huyễn, không thật có, vì chúng sinh bệnh nên Bồ Tát thị hiện có bệnh mà thôi. Bồ Tát không lìa chúng sinh để thấy Phật, mà thấy chúng sinh là Phật sẽ thành, nếu xa rời chúng sinh thì không thấy Phật, lìa sóng không thấy nước. 

Bệnh của chúng sinh là từ bốn đại (đất, nước, gió, lửa) mà khởi, bệnh của Bồ Tát là từ lòng Đại Bi, không do bốn đại những cũng không lìa bốn đại, vì lìa bốn đại thì không thấy chúng sinh

Ngài Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật: “Bồ Tát nên an ủi Bồ Tát có bệnh như thế nào?” Cùng là Bồ Tát tất nhiên hiểu nhau, cùng sáng suốt giác ngộ, cùng lìa tướng nhập Tánh, cùng thực hành từ bi lợi tha, tuy biết ông Duy Ma Cật thị hiện có bệnh mà thôi chứ không phải có bệnh thật, nhưng Bồ Tát cũng phải tới an ủi thăm hỏi, làm thế cho đúng cách. Đây cũng là một vị Bồ Tát xuất gia tới thăm hỏi một vị Bồ Tát tại gia, tuy hai mà một, đồng kính trọng nhau, đồng luận pháp mầu, chỉ vì lợi ích chúng sinh

Ông Duy Ma Cật đáp lại với lập trường tích cực, lìa hai cực đoan: tuy biết thân vô thường, là gốc khổ, là vô ngã, nhưng không nhàm chán, không hoại diệt thân, mà cũng không quá quý trọng thân mà nuông chiều chăm sóc quá mức, trái lại Bồ Tát hướng dẫn người tu phải biết dùng thân làm phương tiện để đạt cứu cánh dùng thân làm bè qua sông, chính cái xác thân này sẽ đưa người tu hành tới Pháp Thân thường trụ. Biết thân vô thường thì phải tinh tấn tu hành, không giải đãi lười biếng, không chán thân chán cảnh chán đời. Biết thân là nguồn gốc của khổ nạn, nhưng bản chất là Tánh Niết Bàn, các Bồ Tát đã chứng ngộ nhưng không xa lìa thân, không vội nhập Niết Bàn, mà ở lại cõi đời đau khổ dùng thân này ở liền bên cạnh chúng sinh để chỉ đường dẫn lối tu hành. Biết thânvô ngã mà dùng thân làm phương tiện tùy duyên hóa độ chúng sinh, quên mình giúp người. Biết thân không tịch, lặng lẽ, rốt ráo là không, nhưng vẫn tích cực hoạt động làm lợi cho người khác, chẳng chủ trương tịch diệttrái lại nương xác thân để đạt tới Chân Diệu Pháp Thân

Dù biết rằng thân này chịu khổ là do nhân quả nghiệp báo đã gây tạo từ trước, dù ăn năn sám hối, nhưng không vì những hành động quá khứcam chịu khổ sợ nhọc nhằn, Bồ Tát quên quá khứ (vì quá khứ đã trôi qua không nắm lại được) không phải để tiếp tục gây lội lỗi, mà quyết tâm làm lành, làm tốt, lấy công chuộc tội. Nếu để quá khứ ám ảnh, tội lỗi ray rứt thì đau khổ hối hận theo hoài, khó dứt ra được. Chi bằng gây tội thì chuộc lỗi, bị gai lấy gai mà nhổ, té ngã nơi đâu thì chống tay nơi đó mà đứng dậy, đã sám hối rồi thì nhất định không tái phạm, mà cũng không nhắc đi nhắc lại làm gì. Nhà tối tăm bẩn thỉu lâu ngày thì phải thắp đèn là sáng, lau chùi là sạch, than thở suông không giúp ích gì.

Vẫn biết do tội trước mới có bệnh sau, thí dụ: do ăn uống không gìữ vệ sinh nên bị đau bụng, do trộm cướp mà bị vào tù ... thì từ nay phải xin chừa, không tái phạm mới là tốt, nếu cứ buồn rầu để lương tâm cắn rứt mà không sửa đổi tâm tánh, cứ chứng nào tật nấy, thì bài học quá khứ không giúp gì cho hiện tại và tương lai. Không nói vào nơi quá khứ còn có ý nghĩaBồ Tát không chấp sự chia cắt thời gian làm ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) mà chỉ phương tiện nói có trước có sau mà thôi, vì nơi cứu cánh tuyệt đối, nơi Thể Tánh không có thời gian vô thường mà lúc nào cũng là Chân Thường Vĩnh Cửu. Tội lỗi vốn là Không, chẳng có Thật Tướng, do Tâm sinh thì lại do Tâm diệt, hiểu vậy thì phá được cái chấp thường, chấp đoạn, lìa hai tướng cực đoan, chứng nhập Chân Như

Đứng trên lập trường bản thể thì không có ta có người, không có bệnh có khổ, nhưng trong cuộc đời tương đối, nơi thế gian vẫn có ta có người, có bệnh có khổ, nếu phủ nhận là lại lạc vào bệnh chấp không. Vì còn thấy có ta có người nên phải lấy bệnh mình mà thương bệnh người, đồng bệnh tuơng lân, lấy lòng mình mà đo lòng người, Bồ Tát thị hiện có bệnh để hiểu thấu cái khổ khi bị bệnh mà thông cảm chúng sinh đã đeo bệnh suốt nhiều đời nhiều kiếp, chịu khổ não vô cùng tận. Có hiểu rõ hoàn cảnh của người mới dễ tìm ra phương thuốc cứu giúp, biết bệnh do nghiệp báo cũ sinh ra nên Bồ Tát dạy chúng sinh giữ gìn ba nghiệp thân miệng ý cho thanh tịnh, không làm việc ác, chỉ làm việc lành, đem công đức hồi hướng cho tất cả chúng sinh thì các nghiệp cũ được tan đi, mọi bệnh khổ tiêu trừ, ví như vị thầy thuốc giỏi tìm đúng gốc bệnh, cho đúng thuốc, bệnh tất tiêu tan. Các vị Bồ Tát nguyện làm thầy thuốc giỏi (Y Vương) để chữa thân bệnh và tâm bệnh cho tất cả chúng sinh, Bồ Tát thị hiện có bệnh mà không buồn rầu, vẫn tinh tấn cứu giúp chúng sinh, vui với Tâm Bồ Đề lợi tha

Đó là Bồ Tát không bệnh phải an ủi Bồ Tát có bệnh như vậy. Còn Bồ Tát có bệnh phải điều phục tâm mình như thế nào? Tâm đây không phải là Chân Tâm, mà là vọng thức nên cần phải điều phục. Bồ Tát có bệnh phải nghĩ rằng: bệnh là ở thân, có thân thì có bệnh, thân do bốn đại (đất, nước, gió, lửa) hòa hợp mà thành, giả gọi là thân; khi bốn đại không hòa hợp thăng bằng thì thân tự nhận là có bệnh. Nếu biết bốn đại không tự chủ tự tại, có thành có hoại, có hợp có tan, thì biết thân này vô ngã; thân đã vô ngã thì những cái của ta (ngã sở) cũng là không, không ta, không người, không chúng sinh, không thọ mạng, không chấp bốn tướng này mà trở về sống với Tánh Thể bình đẳng không hai. Tánh Thể này là Không, Như Như Bất Động, là Chân Ngã Niết Bàn. Tánh Thể này không hề có bệnh. Đây là điểm khác biệt giữa Bắc TôngNam Tông, Bắc Tông chủ trương thâm nhập Tánh Không của Trí Huệ Bát Nhã, còn Nam Tông chủ trương dứt thọ cảm để cầu chứng Niết Bàn. Nam Tông thấy có chúng sinh đau khổ nên cần tu hành thoát khổ, chứng Niết Bàn an vui. Còn Bắc Tông thấy tất cả là một, chẳng hai, nên Bồ Tát không lìa chúng sinh, không nhập Niết Bàn

Bệnh là ở thân, có thân nên có bệnh, có bệnh là do chấp ngã, bỏ chấp ngã là phá được thân kiến, có trí huệ sáng suốt hiểu biết sự thật, khi đã trừ được ngã và ngã sở rồi thì thấy tất cả là một, bình đẳng như nhau, ai cũng là bà con quyến thuộc, không còn yêu ghét oán thân; đẹp xấu khen chê, ngon dở... đều không làm dao động tâm mình. 

Ông Duy Ma Cật hiện thân cư sĩvợ con quyến thuộc, nhưng ông hiểu biết sáng suốt, hành động như một vị Đại Bồ Tát, sau khi thị hiện có bệnh, rồi điều phục vọng tâm để thoát khổ, nhưng thấy chúng sinh vẫn còn chìm đắm trong cảnh khổ của ba cõi sáu đường, nên ông thấy còn bổn phận cứu độ chúng sinh, dạy dỗ chúng sinh dứt trừ gốc bệnh. Gốc bệnh là vô minh, vọng thức, loạn tưởng điên đảo, phiền não, dính níu sáu trần trong ba cõi là gốc của Sinh, mà Sinh chính là nguyên nhân của Già, Bệnh, Chết. Chúng sinh sở dĩ chịu cảnh khổ luân hồi từ vô số kiếp, thống khổ triền miên trong cảnh tối tăm mờ mịt chưa biết ngày nào ra khỏi, chỉ vì chưa tìm ra gốc bệnh để trừ. Nay đã biết gốc bệnh rồi thì phải trừ diệt nó bằng pháp quán Vạn Pháp Vô Sở Đắc, mọi vật không có gì là được cả. Vì sao? Vì sáu căn là huyễn hóa, sáu trầnảo ảnh, sáu thức mê lầm. Trong Bát Nhã Tâm Kinh có câu: Vì không có gì được nên các Bồ Tát tâm không ngăn ngại, không lo sợ điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn

Bồ Tát có bệnh mà điều phục được tâm mình như vậy thì mới thật là chánh giác. Dẹp được oán tặc gọi là dõng mãnh, dẹp được gốc Sinh, Già, Bệnh, Chết gọi là Bồ Tát. Nhưng có một điểm rất quan trọng vi tế cần phải lưu ý, kẻo hành từ bi mà lạc vào ái kiến. Nếu Bồ Tát còn thấy có ta, có người, có bệnh, vì ta bệnh nên thương người bệnh, đó là ái kiến từ bi, cần phải bỏ. Vì sao? Thấy có ta thì làm lâu sẽ mỏi mệt, hành từ bi nhiều sẽ nhàm chán, thấy có người thì khi người kia đau khổ mình thương, nếu người kia xấu ác thì mình ghét, thấy có bệnh hay lây, truyền nhiễm nguy hiểm thì mình tránh, tâm mình sẽ khởi niệm phân biệt bất bình đẳng, khi đó lòng từ bi bị thương tổn, không còn vô tư. Để tránh ái kiến từ bi, trong khi cứu giúp mọi người, Bồ Tát luôn luôn giác tỉnh, vô ngã , vô pháp, mở rộng lòng từ bi luôn luôn sẵn sàng với bất cứ ai, bất luận trường hợp nào, hoàn cảnh dù thuận dù nghịch, không cần đợi duyên, không cần đủ duyên, lòng từ bi quảng đại này được gọi là Vô Duyên Từ

Khi mình không bị ái kiến che lấp Chân Tâm thì không bị ràng buộc mà lại còn đi cởi mở sự ràng buộc cho chúng sinh. Tự cởi trói trước rồi mới cho chúng sinh sau. Nếu biết thân ta không thật có, chúng sinh không thật có, sợi dây trói không thật có thì không cần phải cởi cũng vẫn giải thoát tự tại. Lúc làm việc cứu giúp chúng sinh cần sáng suốt áp dụng trí huệphương tiện, nếu sơ ý thì cởi biến thành trói. 

Nếu thực hành phương tiện để điều hòa tâm ý (uống trà, ngâm thơ, thiền hành, cắm hoa...) một cách đúng sức, đúng thời thì mình cảm thấy thoải mái an vui, đó là phương tiện cởi. Nhưng nếu dùng quá sức, hoặc say mê, không đúng lúc, thân tâm bị chi phối lôi cuốn thì đó là phương tiện trói. Cúng dường Tam Bảo đúng sức đúng thời, thân tâm hoan hỷ thì là phương tiện cởi. Nhưng nếu phải chạy ngược chạy xuôi, làm việc quá sức, hoặc đi vay nợ, thân mệt tâm buồn thì việc cúng dường Tam Bảophương tiện trói. Hướng dẫn gia đình đi Chùa, lễ Phật tụng Kinh đúng lúc, đúng tuổi, hợp căn cơ, khiến mọi người vui vẻ thì là phương tiện cởi. Nếu mọi người phải làm những việc đó một cách uể oải không thích hợp, miễn cưỡng mà làm thì là phương tiện trói. Tóm lại, những việc gì làm tham sân si giảm là phương tiện cởi, là tốt; những việc gì làm tham sân si tăng là phương tiện trói. 

Chúng sinh có nhiều tâm tư ý thích khác nhau, có những thú vui riêng, nếu trái ý là không nghe; nếu người ta không muốn thì mình đừng dùng sức mà kéo vào Thiên Đường. Nếu ngườì ta muốn vào Đia Ngục, mình dùng sức kéo ra họ cũng chẳng theo. Do vậy, Bồ Tát phải khéo léo, tùy duyên phương tiện mà dẫn dắt, khi thuận khi nghịch, sau phải dùng Trí Huệhóa độ. Muốn họ theo, mình phải làm gương tốt trước, mình không uống rượu mới khuyên người đừng uống rượn, mình không nói dối mới khuyên người đừng nói dối, mình cởi trói cho mình trước rồi hãy cởi trói cho người khác, đó gọi là Thân Giáo, có đủ phương tiện huệ và huệ phương tiện. 

Áp dụng đúng phương tiện để tiêu trừ tham sân si thì gọi là có huệ phương tiện. Nhưng áp dụng sai hoặc quá đắm nhiễm phương tiện khiến tham sân si tăng trưởng thì gọi là không có huệ phương tiện. Tập thể dục đúng sức để được mạnh khỏe, là có phương tiện hnệ. Nếu quá say mê tập quá sức thì hại sức khỏe, đó là không có phương tiện huệ. 

Thường quán thân vô thường, vô ngã, khổ và Không gọi là có Huệ. Dùng mọi duyên lành, không ngại khổ nhọc, để độ chúng sinh gọi là có Phương Tiện. Có Huệ Phương Tiện là phương tiệntrí huệ soi sáng, hóa độ chúng sinh mà vẫn tỉnh giác, không chấp trước vì biết vô ngã, vô nhân. Gặp người bội bạc vẫn làm ơn, bị hiểu lầm không nản chí, kiên trì làm mọi việc lành, dù hoàn cảnh thuận hay nghịch cũng không lùi bước. Còn Phương Tiện Huệ là có Trí Huệ sáng suốt để áp dụng phương tiện thích hợp làm lợi ích cho chúng sinh, tùy duyên hóa độ. Nếu Bồ Tát đem lòng ham muốn, nóng giận, tà kiến, hoặc vì danh lợi mà làm việc lành, thí dụ : cúng dường Tam Bảo nhiều tiền để được khen, được tiếng giầu có hơn người, để thỏa lòng ganh tỵ... thì đó không phải là Phương Tiện Huệ. Bồ Tát thi ân coi như đôi dép rách mang vứt bỏ, làm rồi quên, bị hiểu lầm coi như thử thách ngưỡng cửa Đạo Hạnh, chẳng cần biện bạch, đó là có đủ Huệ và Phương Tiện vậy. 

Thân bệnh cũng có thể làm phương liện để tiến tu đạo hạnh, không vì có bệnh mà chán thân. Khi nằm dưỡng bệuh, ta có thể quán thân vô thường vô ngã, khổ và Không, ngoài ra còn lợi dụng phương tiện nằm nghỉ để niệm Phật, tu thiền, đọc kinh sách, suy ngẫm lý đạo, mở mang trí huệ,... thì đó chính là Huệ Phương Tiện. Ví như chúng ta có chiếc xe hơi để di chuyển, thỉnh thoảng xe bị hư thì phải sửa chữa để lại đem dùng nữa, không vì xe hỏng mà vứt đi. Có sự hiểu biết sáng suốt thì gặp việc xấu cũng chuyển thành tốt, đó là có Phương Tiện Huệ. Gặp hoàn cảnh nghịch, gặp ác duyên mà mình vẫn nhẫn nhục tu hành, vượt qua chướng ngại thì gọi là có Huệ Phương Tiện. 

Bồ Tát có bệnh nên điều phục tâm mình như thế, mà không trụ trong đó, cũng không trụ nơi tâm không điều phục. Đó là Bồ Tát không còn chấp vào việc điều phục tâm mình nữa, vượt qua mọi cố gắng, làm chủ được vọng thức quay về với Chân Tâm, khi ấy mới thật là đầy đủ hạnh Bồ Tát, không theo phàm phu, không theo hạnh Thanh Văn. Phàm phu thấy đời là khổ, bỏ việc đời để tu Đạo, thấy có vọng thức điên đảo cần điều phục, chưa điều phục được thì buồn bực, thối chí nản lòng. Thấy cuộc đời đau khổ quá nhiều mà mình không thoát ra khỏi, thành ra tiêu cực chán đời. Trong giai đoạn này, phàm phu cần lắng lòng bền chí định tâm, nhờ có Định nên Trí Huệ soi sáng, qua được cơn khủng hoảng tiêu cực phát tâm dõng mãnh tích cực tu hành. Còn hàng Thanh Văn cũng thấy đời nhiều nỗi khổ đau, vọng thức điên đảo như sóng bể, các Ngài cố gắng điều phục tâm ra khỏi cuộc đời, nhập Niết Bàn an lạc. Cả hai thái độ đó đều không đúng với hạnh Bồ Tát. Chư vị Bồ Tát không chấp có đời khổ, có Niết Bàn vui, có vọng thức phải điều phục, mà các Ngài lìa hai bên khổ vui, lìa phiền não vọng thức, mà vượt lên trên tất cả với Tâm tỉnh giác hoàn toàn, khéo ứng dụng hoàn cảnh thuận nghịch, khéo tùy thuận căn cơ chúng sinh, vào cảnh nghịch mà vẫn thản nhiên tu được, chứ không sợ mà lánh xa như hàng Thanh Văn, không chìm đắm trong dục lạc như phàm phu. Các Bồ Tát có đủ bản lãnh để lấy độc trị độc, chuyển xấu thành tốt, chuyển ồn ào thành yên lặng. Thí dụ: Trong lớp học, các học sinh nói chuyện lao xao, thầy giáo phải nói nhỏ nhẹ, lớp vẫn ồn, không làm việc được. Lúc đó, thầy giáo phải nói lớn tiếng, lấy thước gõ mạnh lên bảng, khiến học trò im lặng. Lớp học yên rồi thì Thầy không gõ bảng nữa và bắt đầu giảng bài. Nếu thầy tiếp tục gõ bảng thì không giảng bài được. Các Bồ Tát cũng vậy, lúc đầu cần điều phục tâm ví như thầy giáo cần gõ bảng, khi tâm đã thanh tịnh rồi thì không còn trụ vào việc điều phục nữa, ví như lớp học đã yên rồi, Thầy giáo không cần gõ bảng. 

Các Bồ Táthạnh nguyện quên mình lợi ích chúng sinh, nên có lúc thị hiện làm người xấu, việc ác, chỉ để hóa độ chúng sinh, giúp đở chúng sinh mà thôi. Trong Kinh có câu: Dù thực hành sáu pháp thần thông mà không dứt hết lậu hoặc (phiền năo) là hạnh Bồ Tát. Có khi Bồ Tát thị hiện tham sân silàm Phật sự, tham vì người, sân vì muốn giúp người, si để cảnh tỉnh người. Thí dụ: Tham mở mang buôn bán để mướn nhiều người giúp họ có việc làm sinh sống, đem tiền lời làm việc từ thiện, chứ tâm không mong hưởng lợi cho riêng mình; giả bộ nóng giận để dạy người tu, khiến người hối hận mà không làm việc ác; giả bộ mê mờ tội lỗi để làm gương xấu, mọi người thấy mà bỏ dữ làm lành. Giận người thân là mong họ tốt, mắng nhiếc con là mong con ngoan. Nếu tâm mình thật có tham sân si thì là phàm phu, còn thị hiện tham sân si, tâm vẫn thanh tịnh thì là Bồ Tát. Nếu vì mình mà tham sân si thì có tội. Nếu vì cảnh tỉnh người mà tham sân si thì là hạnh của Bồ Tát. Đó chính là phương tiện, nhờ có trí huệ chiếu sáng mà uyển chuyển tùy duyên giúp đỡ chúng sinh, không chấp chặt cứng nhắc. 

Trong suốt đoạn kinh tiếp theo là nói về 37 phẩm trợ đạo, các pháp môn tu hành, Bồ Tát đều thực hành mà không rời Phật Pháp. Trợ Đạo là giúp Đạo, giúp người tu đi trên đường chân chánh, tới chỗ rốt ráo giác ngộ. Trợ là giúp, là phụ, nên chưa phải là chánh, biết vậy mà Bồ Tát vẫn tu, vì biết đó là duyên tốt, là bè đưa qua sông, tới bờ bên kia thì bỏ bè, lúc đó Chánh Pháp còn bỏ huống chi là pháp hoặc trợ đạo. Phật Pháp không cố định, mà biến hóa cho hợp thời hợp cơ, người tu hạnh Bồ Tát không nhất thiết tu theo pháp nào, chúng sinh cần gì cho nấy, thích gì dạy nay, miễn là đưa họ tới chỗ giác ngộ. Nhưng không vì thế mà quá mềm yếu, nếu chúng sinh muốn những điều sai trái thì cương quyết từ chối, hoặc thị hiện nóng giận quát mắng, dùng oai lực để đưa họ trở về chánh đạo. Đó là Bi Trí Song Tu, có từ bi nhưng vẫn nương trí huệ soi sáng, có trí huệ nhưng vẫn từ bi nhu hòa. Có từ bi mà thiếu trí huệ thì dễ thành mềm yếu, dễ bị tình cảm chi phối, không cương quyết. Có trí huệthiếu từ bi thì dễ thành khắc khổ lạnh lùng, chúng sinh nể sợ mà không thích gần gụi. Vì vậy Bồ Tát phát huy trí huệ nhưng không bỏ từ bi, làm gì cũng chỉ vì chúng sinh. Tuy đã chứng Niết Bàn thanh tịnh mà vẫn không lìa cõi Ta Bà nhơ uế, là vì để hóa độ chúng sinh

Các Bồ Tát đã chứng ngộ quán sát cõi Phật vắng lặng như hư không, nhưng vẫn phương tiện hóa ra nhiều cõi Phật khác nhau tùy ý mong cầu của chúng sinh. Dù đã chứng quả Phật nhưng vẫn không bỏ đạo Bồ Tát. Như Đức Bồ Tát Quán Thế Âm vẫn là một vị Cổ Phật danh hiệuChánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vẫn ứng hiện nhiều thân ở cõi Ta Bà để tầm thanh cứu khổ. Các Bồ Tát điều phục được tâm mình như thế thì gọi là đủ hạnh Bồ Tát, ở nơi sinh tử không nhiễm ô, ở Niết Bàn vẫn độ chúng sinh, tuy hóa độ tất cả chúng sinh mà không yêu thương dính níu, không đắm say chấp trước, tuy xa lìa tất cả phiền não ràng buộc mà không diệt tận thọ tưởng, tuy biết tất cả là Không mà vẫn làm mọi công đức, tuy biết vô ngã vô tướng mà vẫn không bỏ một chúng sinh nào, tuy biết vô tác mà vẫn thị hiện làm mọi việc lành, tuy biết vô khởi mà vẫn phát tâm tu hành thanh tịnh, tuy biết vô đắc mà vẫn giúp chúng sinh hưởng quả vị giải thoát, tuy đã tịch diệt mà vẫn hiện thân trong vòng sinh tử, tuy đã rốt ráo trong sạch mà vẫn tùy chỗ ứng thân, phòng dâm quán rượu là nơi thường lui tới, không ngoài mục đích dẫn dắt chúng sinh ra khỏi nơi u mê tội lỗi. Dù thực hành các pháp bất sinh bất diệtBồ Tát vẫn dùng tướng hảo trang nghiêm đeo chuỗi ngọc tràng hoa, y phục lộng lẫy để làm vui đẹp lòng người khiến họ kính quý mà theo, chứ các Ngài chẳng còn đắm say những đồ trang sức y phục. Cũng có lúc thị hiện làm Thanh Văn Duyên Giác ở nơi núi rừng tịch mịch, tu hạnh đầu đà khổ cực mà vẫn không rời Trung Đạo, tất cả chỉ vì chúng sinh, họ muốn gì là các Ngài tùy thuận, tùy duyên hóa độ, chỉ cần họ biết quay đầu trở lại bỏ dữ theo lành, phát tâm Bồ Đề là được. 

sức mạnh khả năng như vậy thì mới có thể phát lời thệ nguyện lớn như Bồ Tát Địa Tạng: “Địa ngục chưa trống, thề chẳng thành Phật. Chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ Đề.” Có điều phục được tâm mình như đã nói ở trên thì mới có thể thực hành Bồ Tát Đạo một cách rốt ráo

Sau khi ông Duy Ma Cật nói xong có tám ngàn vị Trời phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các vị Trời tu mười điều lành, có nhiều phước báo, chịu ít phiền não, hưởng nhiều dục lạc nay được nghe những công hạnh lợi tha của Bồ Tát Đạo, như người mê chợt tỉnh, như đang ở nơi tối được ra chỗ sáng, sự hiểu biết được chiếu soi rực rỡ, cặp mắt đui mù được lành, bèn phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, trên cầu Phật Đạo, dưới độ chúng sinh. Oai lực của lời Cư Sĩ Duy Ma Cật đã chuyển hóa lòng tham đắm dục lạc, say mê hưởng phước của các vị Trời biến thành tâm vị tha, bớt lòng ích kỷphát tâm Bồ Đề, thật là hy hữu

Huyền nghĩa của Phẩm này là những người tu hạnh Bồ Tát phải điều phục tâm mình trước, rồi hãy đi an ủi hóa độ chúng sinh. Tất cả do Tâm tạo, tâm an thì cảnh thuận, tâm tịnh quốc độ tịnh. Khi tâm thanh tịnh rồi thì tha hồ ung dung tự tại vào ra ba cõi, các duyên thuận nghịch chẳng làm động lòng, chúng sinh khó dạy chẳng làm lui bước, làm mọi việc với lòng không mong cầu, lặn lội trong bùn nhơ để cứu vớt chúng sinh với tâm vô phân biệt, Như Như Bất Động, vì các Bồ Tát đã hòa mình với chúng sinh, Tất cả Là Một.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15687)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16381)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23585)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17475)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81304)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19584)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20237)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47435)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39172)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15824)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23205)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19278)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15180)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16817)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13050)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13140)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48983)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23312)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19402)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17167)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32098)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27459)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14319)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14775)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18610)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16417)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13905)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17279)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19372)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28044)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14384)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16935)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22182)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23323)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28019)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64816)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33206)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40184)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25133)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50233)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38526)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27318)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28570)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52228)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35880)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32911)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50830)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74903)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36144)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48989)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31019)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33940)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28907)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58828)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46267)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43835)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43223)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45927)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48033)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63744)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant