Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12 Phẩm Thấy Phật A Súc

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6436)
12 Phẩm Thấy Phật A Súc

 ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

12. PHẨM THẤY PHẬT A SÚC

A Súc là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Bất Động. Phật A SúcPháp Thân chẳng sinh diệt, chẳng tới lui, vắng lặng thường còn, chẳng hề động chuyển, nên gọi là Bất Động

Đức Thế Tôn hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Muốn thấy Như Lai thì lấy gì quán sát? 

Như Lai, theo nghĩa hẹpĐức Phật Thích Ca hoặc chư Phật mười phương, nghĩa rộng là cái gì như như bất động, không sinh không diệt, không tới không lui, là Bản Thể, là Thật Tướng, là Pháp Tánh của mọi sự mọi vật, là nguồn gốc của mọi loài từ đó mà sinh ra, là cái Không sinh ra cái Có, là Chân Lý cao siêu tuyệt vời huyền diệu vô cùng vô tận

Trong Kinh Kim Cang có câu: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai, nghĩa là những vật gì có hình tướng đều là giả dối hư huyễn, nếu thấy được cái Phi Tướng tức tướng Không nằm ẩn trong hình tướng bên ngoài thì thấy được Như Lai, thấy Chân Lý

Ở đây, ông Duy Ma Cật cũng nói giống như vậy: Muốn thấy Như Lai phải quán Thật Tướng, lìa phân biệt hư vọng, rời hai bên đối đãi, phá năm ấm bốn đại, không bờ này bờ kia, chẳng dòng sông phiền não, không sạch không nhơ, không lớn không nhỏ, chẳng sinh chẳng diệt, chẳng trí chẳng ngu, chẳng thủ chẳng xả, chẳng dùng lời nói diễn tả được, đó là quán sát chân chánh (chánh quán), nếu quán khác thì gọi là tà quán

Ngài Xá Lơi Phất, tùy theo lòng nghi ngờ chưa hiểu biết rốt ráo của hàng Thanh Văn, hỏi ông Duy Ma Cật ở đâu chết rồi sinh nơi đây? Hàng Thanh Văn chưa nắm được liễu nghĩa của Như Lai chẳng đến chẳng đi, chẳng sinh chẳng diệt.. nên vẫn còn chấp có chỗ đi và có nơi đến. Ông Duy Ma Cật bèn dùng pháp tu chứng quả và người huyễn hóa sinh ra làm thí dụ cho Ngài Xá Lợi Phất dễ hiểu

Đứng về hình tướng thì có sinh có diệt, nhưng đứng về Thể Tánh thì sinh diệtpháp giả dối huyễn hóa. Chết là tướng bại hoại của pháp hư dối để rồi lại tiếp tục sinh hóa, mà sinh cũng là tướng tương tục của pháp hư dối mà thôi, chẳng có gì thật là sinh, thật là diệt cả. Ví như nước và sóng. Khi lặng là nước, khi động là sóng, hết động trở lại là nước, trước sau vẫn là nước, động tịnh là những hiện tượng giả huyễn tạm thời. 

Đến đây Đức Phật e hàng Thanh Văn lạc vào chỗ chấp không rồi sinh hoang mang mờ mịt nên Ngài đứng về tướng trạng mà bảo Ngài Xá Lợi Phất: ông Duy Ma Cật vốn ở nước Diệu Hỷ của Phật Vô Động, chết rồi sinh nơi đây. 

Danh từ chết là Đức Thế Tôn phương tiện dùng cho hàng Thanh Văn dễ hiểu, chứ thật ra thì ông Duy Ma Cậtlòng từ bi thương xót chúng sinh cõi Ta Bàthị hiện ở cõi này để hóa độ, ông đã ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, không còn sống chết nữa. Ngài Xá Lợi Phất vẫn còn chấp có hai cõi thanh tịnh (Diệu Hỷ) và nhiều oán hại (Ta Bà), ông Duy Ma Cật phải lấy thí dụ mặt trời đem ánh sáng soi chiếu nơi tối tăm. Bồ Tát vì bổn hoài lợi tha nên phải thị hiện ở nơi nhơ uế nhiều đau khổ để cứu giúp chúng sinh, nhưng không hề nhiễm trần cấu bất tịnh, ví như hoa sen mọc trong bùn mà chẳng ngại hôi tanh, chuyển chất liệu uế trược của bùn thành mùi thơm thanh khiết của hoa sen, tung rải hương thơm khắp nơi. 

Nghe lời Đức Thích Ca nói xong, tất cả đại chúng đều khát ngưỡng mong được thấy nước Diệu Hỷ, Phật Vô Động và các hàng Bồ Tát, Thanh Văn của nước đó. Tuân theo lời Đức Thích Ca dạy và muốn cho đại chúng cõi Ta Bà thấy được cõi Diệu Hỷ, tượng trưng cho Bản Thể, Chân Lý cao siêu mầu nhiệm, ông Duy Ma Cật liền nhập tam muội, nghĩa là vào chánh định, hiện sức thần thông mang nước Diệu Hỷ để vào cõi Ta Bà. Chư vị Bồ Tát và những người có thần thông ở nước Diệu Hỷ ý thức đươc việc di chuyển này, còn các người chưa có thần thông thì không hay biết gì cả. Đó là nghĩa làm sao? 

Ví như quả đất tự quay và chạy quanh mặt trời với một tốc độ rất mau, nhưng chúng ta không ý thức được việc chuyển động đó, vì chúng ta ngu muội không có trí huệ, chúng ta sống kẹt trong bầu khí quyển bao bọc mịt mùng nên cứ tưởng là quả đất đứng im; còn đối với các nhà khoa học có trí thông minh sáng suốt có những dụng cụ tinh vi tối tân, hoặc đối với các bậc Thánh siêu phàm thì rõ ràng quả đất chuyển động thật mau. Các Ngài đã vượt lên trên sự hiểu biết tầm thường của thế gian; nhờ trí huệ sáng suốt, các ngài đã thấy được sự thật, nhưng sự thật đó khó tin khó hiểu, nói ra ít ai chịu nghe. Giống như dưới thời Vua Tự Đức, ông Nguyễn Trường Tộ đi sang Âu Châu về tâu Vua những sự phát minh khoa học như đèn điện, tàu hỏa,... Vua và triều đình không tin, cho là nói dối. Chúng ta cũng vậy, sự hiểu biết còn nông cạn hẹp hòi, những gì mắt thấy tai nghe mới tin, còn những gì siêu việt thì khăng khăng cố chấp cho là huyền hoặc, giống như ếch ngồi đáy giếng đâu biết bầu trời bao la

Nhân dân nước Diệu Hỷ không có thần thông thì không hay biết sự việc nhiệm mầu, sự biến chuyển siêu nhiên của nước Diệu Hỷ hòa nhập vào cõi Ta Bà, toàn thể cõi nước của họ di động mà họ chẳng hay chẳng biết gì cả, chỉ có các Bồ Tát, Thanh Văn cùng các Trời người có thần thông thì biết rõ. Nước Diệu Hỷ được đặt vào cõi Ta Bà mà không thêm không bớt, còn cõi Ta Bà cũng không chật hẹp, vẫn y nguyên như trước. Đây là luận về Bản Thể, Pháp Tánh nên không có sự phân biệt rộng chật, không có vật chất cản trở ngăn ngại nhau, chỉ có Tâm Thể hòa hợp làm một. 

Đại chúng cõi Ta Bà thấy rõ nước Diệu Hỷ trang nghiêm tốt đẹp nên đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sinh sang nước đó. Đức Thích Ca liền thọ ký cho và bảo muốn vậy phải học cái Đạo của Đức Vô Động Như Lai đã làm, nghĩa là phải giữ tâm như như bất động, vô phân biệt, tùng tướng nhập Tánh. Danh từ thọ ký có nghĩa là nói trước, báo trước cho người tu hành chân chánh biết về sau sẽ thành tựu quả vị gì, ở lại nước nào, cõi đó tốt đẹp ra sao, sau bao nhiêu kiếp sẽ được thành Phật

Huyền nghĩa của đoạn kinh này là chúng sinh nào muốn trở về Bản Tâm như như bất động thì phải bỏ qua những tướng trạng bên ngoài mà quay về thâm nhập Thật Tướng bên trong. Chúng sinh thường chỉ tin tưởng vào những gì mắt thấy tai nghe và những sự việc vật chất do giác quan tiếp thụ, còn những gì siêu việt do Tâm cảm nhận thì không tin. Ông Duy Ma Cật dùng thần thông đem nước Diệu Hỷ để vào cõi Ta Bà khiến cho chúng sinh thấy và phát lòng tin rằng ngoài cõi Ta Bà còn có nhiều cõi nước khác nhiều cảnh giới tốt đẹp nhiệm mầu, nhưng đều không ngoài Tâm mà có. Duy Ma Cật được dịch là Tịnh Danh hoặc Tịnh Tâm. Ông Duy Ma Cật đem nước Diệu Hỷ cho chúng sinh thấy, nghĩa là phải giữ tâm thanh tịnh, như như bất động, phải tu Định thì trí huệ phát sinh, thấy được sự thật huyền diệu an vui (nước Diệu Hỷ của Phật Vô Động). Muốn tới đó thì phải bỏ lòng chấp trước ích kỷ hẹp hòi tán loạn điên đảoquay về với Tâm Bất Động, chính Tâm này là Bản Thể nguồn gốc sinh ra mọi sự mọi vật, là Chân Không phát sinh Diệu Hữu

Sau khi làm xong những việc lợi ích nơi cõi Ta Bà, Đức Phật Bất Động và tất cả nhân dân nước Diệu Hỷ trở về chốn cũ, cả đại chúng đều thấy rõ. Ngài Xá Lơi Phất tán thán thần thông của ông Duy Ma Cật và nguyện tất cả chúng sinh được thanh tịnh như Phật Vô Động. Ngài và đại chúng thời bấy giờ được nhiều lợi lành, được gặp và cúng dường ông Duy Ma Cật, Ngài nguyện cho những chúng sinh đời hiện tại hoặc vị lai được nghe kinh này, tin hiểu thọ trì đọc tụng giải nói, đúng như pháptu hành, sẽ được kho tàng Pháp bảo và được chư Phật hộ niệm. 

Nghe, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, giải nói Kinh này là tốt lắm, nhưng quan trọng hơn hết là phải đúng như pháptu hành. Nếu không tu hành đúng như pháp thì chỉ là học suông, chỉ có bề ngoài, chỉ có học mà không tu thì khác gì cái đãy đựng sách, cái tủ sách đầy bụi, không lợi ích cho ai cả. Đã học rồi thì phải hành, mà phải hành đúng như pháp, nghĩa là đúng Chân Lý, đúng luật Phật, hợp thời hợp cơ, tùy hoàn cành, tùy phương tiện, miễn làm sao lợi người lợi mình, tự giác giác tha, cùng nhau đi trên đường giác ngộgiải thoát. Phật dạy gì ta làm nấy, Pháp dạy thế nào ta theo nấy, Tăng sống hòa hợp thanh tịnh như thế nào ta bắt chước nấy, bất cứ làm việc gì cũng chỉ vì cứu giúp chúng sinh, không mong cầu, không ích kỷ ngã chấp, không chứng không đắc đó là đúng như pháptu hành vậy. Cúng dường những người tu hành như vậy tức là cúng dường chư Phật, vì người đó đã đi đúng con đường Phật, làm đúng việc Phật, chắc chắn sẽ thành Phật. Tuy còn mang hình tướng chúng sinh nhưng hột giống Phật trong người đó đã nẩy mầm mạnh mẽ, Phật Tánh đã được lau chùi hết bụi, ánh sáng giác ngộ đã chiếu sáng, chẳng bao lâu sẽ ngồi dưới cội bồ đề, đại phá ma quân, thành Đạo Vô Thượng

Nếu có người nào biên chép thọ trì kinh này thì chính là trong nhà người ấy có Như Lai. Kinh là Pháp Bảo, là báu vật đưa chúng sinh từ mê tới ngộ, từ phàm tới Thánh, tới Phật cho nên trong nhà có kinh này được gọi là nhà có Như Lai. Kinh Pháp Bảo là nhân mà Như Lai, Phật Bảo là quả. Nhưng điều cần yếuthọ trì rồi y theo nghĩa lý trong kinh mà thực hành thì mới có lợi, chứ chẳng phải chỉ đọc tụng như con vẹt mà không hiểu huyền nghĩa ẩn ý của kinh, không thực hành đúng đắn lời kinh thì dù trong nhà có thiên kinh vạn quvển, bìa dầy chữ vàng, cũng chẳng có Như Lai

Người nghe kinh này mà tùy hỷ thì sẽ được đến bậc Nhất Thiết Trí. Tùy hỷ là vui theo. Thấy người khác được lợi lạc mà mình không có lòng ganh ghét đố kỵ, lại vui theo, mừng cho người ấy thì được gọi là tùy hỷ. Sau khi vui theo rồi, mình cần bắt chước người đó mà tu hành thì rồi cũng phát huy được cái trí huệ sẵn có của mình, biết được tất cả mọi sự mọi vật một cách đúng như thật, đúng Chân Lý, trí huê sáng suốt đó gọi là Nhất Thiết Trí

Cho đến người nào chỉ tin hiểu kinh này cho đến một bài kệ bốn câu rồi giải nói cho người khác nghe, phải biết người đó được thọ ký quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Kinh sách có câu: Lòng tin là mẹ sinh ra chư Phật. Phải có lòng tin ba ngôi báu Phật Pháp Tăng để trở về nương tựa (quy y) và tinh tấn tu hành thì sẽ được thành Phật. Thiếu lòng tin thì không có cơ sở vững chắcxây dựng tòa nhà tinh thần, muốn ở nhà lầu cao đẹp mà không đặt nền móng cho tốt, cho ngay thẳng thì dễ bị sụp đổ. Nhưng không phải ai nói gì cũng tin, thấy gì cũng tin, tin càn tin bướng, tin tà ma quỷ quái, mà phải có lòng tin chân thật gọi là Chánh Tín, tin lẽ phải, tin luật nhân quả, tin lý vô thường, vô ngã, tin theo gương sáng của Phật, tin theo lời Phật, kinh Phật tức là Pháp, tin theo đời sống thanh tịnh hòa hợp của chư Tăng, lòng tinđiều kiện thứ nhất trong ba điều kiện thiết yếu được vãng sinh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà (Tín, Nguyện, Hạnh). 

Sau khi tin rồi thì cần phải học hiểu cho rõ lời Phật, nghĩa Kinh gồm cả nghĩa đennghĩa bóng, nhất là thâm ý ẩn tàng trong Kinh, chư Tổ thường đạy đọc kinh cầu lý là thế đó. Tin hiểu rồi thọ trì nghĩa là nắm vững lý kinh một cách chắc chắn sâu xa bền vững không còn sai lầm, rồi đem giải nói cho những người khác nghe, nghĩa là tự giác rồi thì phải giác tha, chẳng bao giờ ôm lòng ích kỷ, mà lúc nào cũng muốn làm lợi ích cho người khác. đó là tâm niệm của Bồ Tát chỉ nhắm việc lợi tha, nhân lành đó đưa đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là quả vị Phật cao tột. Kinh điển Đại Thừa rất nhiều, cao siêu rộng lớn, nhưng chì dùng một bài kệ bốn câu giải nói cho người khác nghe mà được lợi ich lớn lao như vậy, vì giúp người khác nghe rồi tin hiểu thọ trì, cũng như đánh thức người đó tỉnh giấc chiêm bao, tỉnh rồi thì không mê nữa, mình chỉ đánh thức một lần là đủ, chĩ dùng bốn câu kệ là đã tạo duyên lành, mở đầu cho hột giống Phật trong người đó nẩy mầm, rồi lần lần đơm hoa kết quả. Kẻ nói người nghe Kinh này đều được thọ ký, chúng sinh đời sau tu hành theo kinh này cũng được thọ ký, bộ kinh này thật là Pháp Bảo vô giá vậy. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49657)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34589)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33416)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43864)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47500)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39377)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38425)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52871)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36561)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32199)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43420)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31419)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46665)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36128)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28658)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29182)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31835)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28761)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33305)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29074)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60944)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39684)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26613)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29629)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37301)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40033)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26809)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42596)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37215)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28251)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28860)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26353)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27126)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26157)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34546)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27769)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30433)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33198)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28516)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30026)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25457)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21808)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51228)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26652)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28574)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27664)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24314)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27416)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31875)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30134)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27655)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35380)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27397)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29971)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31694)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22978)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24131)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22975)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant