Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 12 Kiến Phật A Súc

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6794)
Phẩm 12 Kiến Phật A Súc

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 – 1999

 

PHẨM 12. KIẾN PHẬT A SÚC

I. LƯỢC VĂN KINH 

Đức Thế Tôn hỏi Duy Ma Cật : “Ông lấy cái gì quán sát để thấy Như Lai ?”.

Duy Ma Cật thưa : “Như con quán thật tướng của thân, quán Phật cũng thế. Con quán Như Lai đời trước không đến, đời sau không đi, hiện tại không ở, không quán sắc, không quán sắc như, không quán sắc tánh, không phải tứ đại sanh cũng như hư không, thuận ba môn giải thoát, đầy đủ ba minh, ba minh ấy đồng đẳng với vô minh, không một tướng, không khác tướng, không có tự tướng, không có tha tướng, không phải không tướng, không phải chấp tướng, không thể dùng trí mà hiểu được, không thể dùng Thức mà biết được, không phải hữu vi không phải vô vi, dứt tướng nói năng v.v... 

“Bạch Thế Tôn, thân Như Lai như thế, con quán cũng thế. Nếu người nào quán theo đây gọi là chánh quán, quán khác gọi là tà quán.

Lúc ấy Xá Lợi Phất hỏi Duy Ma Cật : “Ông ở đâu chết rồi sanh nơi đây ?”.

Duy Ma Cật đáp : “Pháp của Ngài chứng được có chết rồi sanh không ?”.

- Không chết không sanh.

- Nếu các pháp không có tướng chết rồi sanh, tại sao Ngài lại hỏi ông ở đâu chết rồi sanh nơi đây? Ý Ngài nghĩ sao ? Ví như hình nam nữ do nhà huyễn thuật hóa ra có chết rồi sanh không ?

- Không có chết rồi sanh.

- Ngài không nghe Phật nói các pháp tướng như huyễn đó sao ?

- Có nghe như thế.

- Nếu các pháp tướng như huyễn thì tại sao Ngài nói rằng ông ở đâu chết rồi sanh nơi đây? Xá Lợi Phất, chết là cái tướng bại hoại của pháp hư dối, sanh là tướng tương tục của pháp hư dối. Bồ tát dù chết không dứt mất gốc lành, dù sống không thêm các điều ác.

Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Phất : “Có cõi nước tên là Diệu Hỷ, Phật hiệuVô Động, ông Duy Ma Cật này ở nước đó chết rồi sanh nơi đây.

Xá Lợi Phất thưa : “Chưa từng có vậy. Bạch Thế Tôn, người này chịu bỏ cõi thanh tịnh mà thích đến chỗ nhiều oán hại”.

Duy Ma Cật nói với Xá Lợi Phất rằng : “Ý Ngài nghĩ sao ? Lúc ánh sáng mặt trời chiếu lên có hiệp với tối không ?”

Xá Lợi Phất trả lời : “Không, ánh sáng mặt trời khi mọc lên thì không còn tối nữa”.

Duy Ma Cật hỏi : “ Mặt trời tại sao lại đi qua cõi Diêm Phù Đề?”

- Muốn đem ánh sáng soi chiếu sự tối tăm cho cõi Diêm Phù Đề.

Duy Ma Cật nói : “Bồ tát cũng thế, dù sanh cõi bất tịnh để hóa độ chúng sanh, chớ không chung hiệp với kẻ ngu tối; cốt dứt trừ phiền não đen tối của chúng sanh mà thôi”.

Lúc ấy, cả đại chúng khao khát thấy cõi nước Diệu Hỷ, Đức Vô Động Như Lai và các hàng Bồ tát, Thanh văn.

Phật biết tâm niệm của chúng hội, liền bảo Duy Ma Cật : “Xin hiện cõi nước Diệu Hỷ, Đức Vô Động Như Lai và các hàng Bồ tát, Thanh văn cho chúng hội xem. Đại chúng ai cũng đang ngưỡng mộ”.

 Duy Ma Cật nghĩ rằng : “Ta sẽ không rời chỗ ngồi mà tiếp lấy cõi nước Diệu Hỷ và các thế giới từ Diêm Phù Đề cho đến cõi Trời Đao Lợi. Ta đưa thế giới kia vào thế giới này, cũng như người ta mang một vòng hoa cho tất cả đại chúng thấy”.

Nghĩ như vậy rồi, Duy Ma Cật liền nhập định, hiện sức thần thông, đưa tay mặt bứt lấy thế giới Diệu Hỷ đặt vào cõi Ta bà này. Các Bồ tát và chúng Thanh văn cùng Thiên nhânthần thông đều cất tiếng thưa rằng : “Bạch Thế Tôn, ai đem chúng con đi, xin Thế Tôn cứu hộ ”.

Đức Phật Vô Động nói : “Không phải ta làm, đó lần thần lực của Duy Ma làm như thế”.

Ngoài ra, những người không có thần thông không hay không biết mình đi đâu. Cõi nước Diệu Hỷ dù nhập vào cõi Ta bà, mà không thêm không bớt. Còn cõi Ta bà này cũng không chật hẹp, vẫn nguyên như trước.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo đại chúng : “Các ông hãy xem cõi nước Diệu Hỷ, Phật Vô Động Như Lai, nước đó trang nghiêm tốt đẹp, chúng Bồ tátThanh văn thanh tịnh”. Đại chúng thưa rằng : “Dạ, đã thấy”.

Phật bảo các Bồ tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh như thế, cần phải học hạnh của Đức Vô Động Như Lai.

Khi hiện ra cõi nước Diệu Hỷ, cõi Ta bà có 14 na do tha người phát tâm Vô thượng chánh đẳng giác, đều nguyện sanh ở nước Diệu Hỷ. Phật Thích Ca liền thọ ký cho họ sẽ sanh ở nước đó.

Sau khi làm Phật sự xong, Duy Ma mang thế giới Diệu Hỷ trở về bổn độ như cũ. 

Phật hỏi Xá Lợi Phất : “Ông thấy nước Diệu Hỷ và Đức Phật Vô Động chăng ?”.

- Dạ, bạch Thế Tôn, con đã thấy. Nguyện tất cả chúng sanh được cõi nước thanh tịnh như Đức Phật Vô Độngthần thông như Duy Ma Cật. Bạch Thế Tôn, chúng con được nhiều lợi lành, được thấy Duy Ma gần gũi cúng dường. Còn những chúng sanh hoặc hiện tại hoặc sau khi Phật diệt độ mà nghe kinh này cũng được lợi lành. Huống chi nghe rồi tin hiểu, thọ trì, đọc tụng giải nói, đúng như pháp tu hành. Nếu có người cầm được kinh điển này, thì đã được kho tạng pháp bảo. Nếu có người đọc tụng, giải thích nghĩa lý kinh này, đúng như lời Phật dạy tu hành, thì được chư Phật hộ niệm. Nếu có ai cúng dường người như thế tức là cúng dường chư Phật. Nếu có người biên chép thọ trì kinh này, chính là trong nhà người đó có Như Lai. Nếu người nghe kinh này mà tùy hỷ người đó sẽ đạt “Nhất Thiết Trí”. Nếu người tin hiểu kinh này, cho đến một bài kệ bốn câu, rồi giải nói cho người khác nghe, phải biết người đó được thọ ký quả Vô thượng chánh đẳng giác.

II. GIẢI THÍCH

Mở đầu phẩm, Phật Thích Ca hỏi Duy Ma làm sao thấy được Như Lai. Câu hỏi này cũng được Phật hỏi Tu Bồ Đề trong kinh Kim Cang.

Theo kiến giải của kinh Kim Cang “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”, nghĩa là nhìn các tướng của sự vật không phải sự vật, thì đó là Như Lai.

 Tuy nhiên, từ định nghĩa Như Lai là phi tướng dưới dạng chơn không của Bát Nhã, dễ bị hiểu lầm với NGOAN KHÔNG, nên chuyển sang thuyết kinh Duy Ma để chỉ bày diệu hữu. Kinh mượn nhân vật Duy Ma để định nghĩa Như Lai, mới đúng. 

Thật vậy, Duy Ma hiện hữu trên cuộc đời, nhưng hoàn toàn sống với bản tâm thanh tịnh. Vì cốt lõi của Ngài là Tịnh Danh sống ở thế giới của Phật Vô Động, nên Ngài thấy Như Lai với tư cách con người ở dạng vô động, không còn bị trần duyên chi phối. Trong khi Tu Bồ Đề ở dạng ly thế gian, trụ trong tam giải thoát môn : Không, vô tác, vô nguyện, nên thế giới của Ngài là phi tướng. 

Phải hỏi Duy Ma là người thật, nhưng sống vô động, mới hiển bày ý nghĩa đích thực về Như Lai được.

Câu hỏi làm thế nào thấy Như Lai, đối với chúng Thanh văn, thật lạ lùng. Đứng trước Phật, thấy Phật là việc bình thường; còn hỏi làm sao thấy Phật. 

Duy Ma trả lời cũng thật lạ và thật đơn giản rằng từ khi sanh đến khi chết, tất cả những gì Ngài hiểu biết, nghe thấy đều là Như Lai. Ngài thấy Như Lai qua hành động của Ngài. 

Câu Duy Ma trả lời hoàn toàn khác với điều chúng ta thường nghĩ Phật là đối tượng ở ngoài. Điểm này muốn nâng nhận thức của chúng ta

Kinh Kim Cang không cho phép chúng ta dùng mắt thấy Như Lai, dùng âm thanh cầu Như Lai; vì như vậy là người hành tà đạo không bao giờ thấy Như Lai

Hàng Thanh văn, nhân, thiên thấy Như Lai là thầy dạy. Và Như Lai diệt độ, họ đúc tượng thờ Ngài để tỏ lòng tôn kính. Đó là thấy Phật qua con ngườihình tượng

Tuy nhiên, Phật phủ nhận ông Phật ở dạng này vì không giúp ích gì cho chúng ta. Phải nhìn vào chiều sâu của vật chất để thấy Phật bên trong, nhận được cái cao quý hàm chứa trong sanh thân Sĩ Đạt Ta là Báo thân viên mãn. Đánh mất Báo thân không còn là Phật. 

Bồ tát nhìn Như Lai qua Báo thân cao quý, hay quan sát tư tưởng, việc làm trong quá trình tu đạo Bồ tát của Như Lai, để tập thể nghiệm trong cuộc sống. Tùy theo mức độ trắc nghiệm mà Bồ tát nhận được pháp phần. Đó là ý nghĩa Bồ tát thấy Như Lai trong hành động, trong cuộc sống của mình. Nói cách khác, giải thoát của hành giả chính là giải thoát của Như Lai; còn Như Lai ở ngoài đâu có tác dụng gì.

 Duy Ma thấy Như Lai qua hành động của Ngài. Mọi việc làm trên cuộc đời đối với Duy Ma, dù thuận hay nghịch đều là vấn đề tu dưỡng, đưa Ngài đến cứu cánh giải thoát

Duy Ma đứng ở lập trường giải thoát thực sự, mới được quyền phát biểu như vậy. Riêng chúng ta còn ở vị trí nghiệp báo đầy ngập mà nói thế, sẽ phạm tội nặng, trở thành phá giới

Hành động của Duy Ma mới là hành động Phật. Suốt cuộc đời, Ngài làm lợi ích chúng sanh, không lỗi lầm, được người trong thành Tỳ Da Ly kính trọng. Hành động tội lỗi của chúng ta không thể ghép là hành động Phật. Chỉ có hoa sen mới không dính nước, chúng ta lường gạt thì không thể là con Phật.

 Duy Ma nói “Hành động của ta là Như Lai”, “Ta” này là Duy Ma, không phải là chúng ta phàm phu. Duy Ma dạy “Suy nghĩ của ta là Như Lai”. Tư duy của hành giảNhư Lai với điều kiện hành giả đã từng tu Thanh văn, Duyên Giác, tức từng sống trong pháp Phật, lâu ngày suy nghĩ của hành giả cộng với pháp Phật biến thành tâm pháp. Bấy giờ, mọi suy tư đều từ bản tâm bộc phátthể hiện trong cuộc sống. Đến ngày nào hành giả đạt quả vị Phật, hành giả và Phật trở thành một. 

Duy Ma nói sự thật, Ngài thấy Như Lai qua hành động của Ngài, một hành động tu chứng.

Đến đây, Xá Lợi Phất khởi ý niệm Duy Ma quá siêu tuyệt. Quả thật việc làm lợi ích cho đời của Như Lai đều thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống của Duy Ma. Hành động Duy Ma là hành động Như Lai, chỉ khác là Duy Ma đóng vai cư sĩ, Phật Thích Ca đóng vai xuất gia.

 Xá Lợi Phất thấy thật mới tán thán Duy Ma, nghĩ rằng Duy Ma không phải là người ở thế giới này, liền hỏi “Ngài từ thế giới nào sanh lại ?”. 

Xá Lợi Phất thắc mắc vì đứng ở lập trường Thanh văn tu lấy cuộc đời hiện tại làm chính. Trong khi Bồ tát lấy vô tận thời gian làm chính. Khi thọ giới Thanh văn, phát nguyện giữ giới từ đây đến suốt đờiđời sau không giữ cũng được. Bồ tát thì khác, khi phát tâm bồ đề nguyện giữ giới từ đây cho đến ngày thành Phật, trăm kiếp ngàn đời đều giữ.

 Từ ý này, chúng ta thấy rõ thọ mạng của Bồ tát không gián đoạn, còn thọ mạng Thanh văn chỉ giới hạn một kiếp. Bồ tát lấy kết quả tu hành đời này làm nhân cho đời sau; cứ như vậy nối tiếp nhau thành một đường thẳng cho đến Vô thượng chánh đẳng giác, không thay đổi.

 Thanh văn nghĩ chết thân này, sanh thân khác là nói về sanh thân. Đứng ở lập trường sanh thân, Xá Lợi Phất khởi ý niệm Duy Mathế giới khác chết sanh lại thế giới này.

 Duy Ma không trả lời Ngài ở thế giới Diệu Hỷ trở lại đây, nhưng hỏi ngược lại Xá Lợi Phất rằng hiểu biết của ông hay quả vị La hán của ông tu chứng có chết chỗ này sanh chỗ khác không ? 

Câu hỏi của Duy Ma gợi cho chúng ta thấy đời sống tâm linh trước khi đắc La hán và sau khi đắc La hán, hai vấn đề này là một hay hai ? 

Đối với Thanh văn bỏ thân này có thân khác; xuất gia riêng, cư sĩ riêng. Nhưng dưới kiến giải của Bồ tát, thấy con người bằng sinh mệnh tương tục, thấy anh linh bên trong đi từ kiếp này sang kiếp khác. Cốt lõi đó không thay đổi, nhưng chiếc áo bên ngoài là hình thức xuất gia hay cư sĩ có đổi. Con người thật bên trong là một, tùy theo nghiệp mà thọ sanh, mang đủ loại hình khác biệt. 

Con người tâm linh trước là “Thức” nhiều ham muốn. Nhưng con người sau thì giải thoát. Hai con người đam mêgiải thoát là một. 

Sống với nội tâm, chúng ta sẽ thấy diễn biến trong cơ thể rất kỳ diệu. Tôi quan sát cuộc đời tu của mình hơn 40 năm, thấy bên trong diễn biến, thay đổi từ từ. Lúc còn bé, tâm thức tôi là Sa di, mang hình hài Sa di. Lớn lên, tôi thọ giới Tỳ kheo thì thân tâm trở thành Tỳ kheo. Có hai hình Sa diTỳ kheo, nhưng thật vẫn là tôi, không phải hai người khác. 

Con người bất tử mới quan trọng. Đừng nhận lầm con người sanh diệt và sống với người sanh diệt, thì đời đời ở trong sanh tử. Chứng vô sanh mà sống với sanh diệtnhận lầm vô sanh

Trong con người chúng ta có dạng sanh diệt do tứ đại ngũ uẩn sanh diệt. Nó sanh diệt từng niệm tâm, về vật chấttinh thần đều biến đổi. Tuy nhiên, trong dạng biến đổi của sanh diệt, chúng ta nhận chân được cốt lõi hằng hữu không thay đổi, không sanh diệt gọi là vô sanh, dù cho chúng ta có thay hình đổi dạng trong kiếp luân hồi.

 Bao giờ phiền não nhiễm ô rơi rụng hoàn toàn, con người thật là chơn tánh tự hiện ra. Hành giả cảm thấy nhẹ nhàng, không dính líu gì đến cuộc đời phiền hà, chứng được Hư không thân. Nhưng từ Hư không thân tác dụng vào cuộc đời một cách kỳ diệu. Tuy không còn ham muốn gì, mọi việc đều xảy ra đúng pháp gọi là Diệu hữu. Lúc ấy, không cần việc tốt, việc tốt tự đến, không sợ tệ ác mà nó tự tránh. Đó là thành quả của người chứng vô sanh

Riêng chúng ta chưa đắc đạo, còn chết ở thế giới này và sanh vào thế giới khác, gọi là phần đoạn sanh tử. Chúng ta không chủ động được việc sống chết, muốn không sanh tử nhưng phải sống trong sanh tử theo định luật của sanh tử. Chúng ta phải sanh phải chết; muốn khác cũng không được, mãi mãitrong vòng luẩn quẩn, bỏ xác này thọ xác khác.

 Bồ tát thông đạt Phật đạo đã vượt ra ngoài sống chết của sắc thân. Trí giác của Bồ tát hoàn toàn tự tại. Thân này đối với Bồ tát giống như chiếc áo thay đổi tùy theo mùa cho thích hợp

Tất cả Bồ tát hiện hữu khắp nơi không vì tham dục thế gian mà sanh lại như chúng ta. Các Ngài trụ ngoài sống chết, nhưng vẫn sống với sống chết.

Không phải một Bồ tát chết và sanh ra Bồ tát khác. Các Ngài tùy hạnh nguyện hiện thân đó đây, để thể hiện Bồ tát hạnh, làm thềm thang cho các Ngài thăng tiến đến quả vị Toàn Giác

Trên bước đường hành Bồ tát đạo, cũng từ một con người này, không phải người khác, Bồ tát trưởng thành dần theo từng bước tu chứng. Vẫn là một con người từ sơ phát tâm đến thành quả Vô thượng, Bồ tát đạt pháp nhãn, do tâm cọ sát với thực tế cuộc sống, tác động cho phiền não rơi rụng và trí giác sanh ra. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả rằng sơ phát tâm thủy thành chánh giác. Khi phát tâm bồ đề rồi, ta là Phật; ông Phật này ở dạng chuyển biến dần, tri thức mỗi ngày phát triển và nhìn đời chính xác hơn, cuối cùng thấy Như Lai là thấy sự vật đúng như thật.

Lý vô sanh theo Duy Ma, không từ đâu đến và không về đâu; nó có khắp tất cả là thật chứng của người đắc đạo. Tuy nhiên, hàng nhị thừa khó hiểu, khó chấp nhận.

Phật Thích Ca đỡ lời cho Duy Ma bằng cách chỉ đại chúng biết Duy Ma là người ở nước Diệu Hỷ, một đệ tử lớn của Phật Vô Động sanh lại Ta bà. Điều này cho thấy Duy Ma thân ở Ta bà nhưng tâm ở thế giới Diệu Hỷ hay đó là pháp của hành giả tu Thiền

Thân ở Ta bà, nghĩa là mang ngũ uẩn thân sống trên cuộc đời thì mọi người có khổ cực nào, hành giả cũng có đủ cái khổ đó. Tuy nhiên, hành giả khác người ở điểm lòng hành giả luôn sống với nguồn vui vô tận không diễn tả được gọi là Diệu. 

Nhờ tâm Duy Ma an trụ trong thế giới an vui, Ngài mới chịu nổi cuộc đời này. Từ thế giới Diệu Hỷ, Duy Ma hiện hữuTa bà làm lợi lạc chúng sanh, thân bên trong vẫn hoàn toàn vô động

Ý này nhắc chúng ta nếu hành Bồ tát đạo tâm còn loạn động, chưa thật vui, chắc chắn sẽ đọa. Vì vậy, khi tôi làm điều gì cảm thấy không vui, tôi bỏ ngay, dù việc quan trọng đến đâu. Cần lưu ý rằng tất cả gì của trần gian chỉ làm hư tâm chúng ta mà thôi. 

Muốn hành Bồ tát đạo, tâm phải hoan hỷ. Chúng ta làm việc với tất cả niềm vui sướng, việc dù khó mấy cũng làm được; không vui việc nhỏ làm cũng không nổi. Trên bước đường hành đạo, có những việc tôi đề xuất rồi lại bỏ, vì muốn giữ nguồn sống bên trong. 

Nguồn vui trong lòng mất là mất tất cả. Cái vốn quý giá của thế giới Diệu Hỷ xin đừng rời bỏ. Lúc nào cũng nhớ mang tâm đặt vô thế giới Diệu Hỷ, luôn sống bên cạnh Phật Vô Động

Duy Ma sống với Phật Vô Động, thấy Phật Vô Động. Tại sao đại chúng không thấy ? Chúng ta tu suốt đời không thấy Phật, thật tủi hổ.

 Đức Phật xác định rằng chưa thấy Phật Vô Động, nghĩa là chưa thấy Phật Thích Ca. Lắng lòng thanh tịnh như Duy Ma, mới thấy Phật thật. Như phần đầu đã nói, Duy Ma tiêu biểu bản tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, Phật mới hiện, là điều Phật Thích Ca muốn dạy. Thấy Phật bằng tâm động loạn là Phật của “căn trần thức”, không phải Phật thiệt.

Từ Đức Phật Vô Động (hay còn có tên là Đức Phật A Súc) mà Duy Ma an trụ, quán sát thấy Như Lai, chúng ta trở qua kinh Bảo Tích tìm hiểu về Đức Phật Vô Động. Nhờ đó, hiểu rõ ý nghĩa thấy Như Lai của Duy Ma hay ý nghĩa Như Lai mà Phật muốn chỉ chúng ta. Đó là sự hội tụ trong con người của chính đức Thích Ca hai phần vô độngsanh diệt.

Trong kinh Bảo Tích, Phật Thích Ca dạy rằng Phật A Di ĐàPhật Vô Động đều có nhân duyên với người ở Ta bàđồng thời trong Ta bà cũng có nhiều Bồ tát từ hai thế giới kia sanh lại. 

Thế giới của Đức Phật A Di Đà ở phương Tây gọi là Cực Lạc, tức cùng tột của sự vui thích. Thế giới của Đức Phật Vô Động ở phương Đông mang tên Diệu Hỷ, là nỗi vui mừng không diễn tả được.

 Các Bồ tát phương Tây đến Ta bà rất nhiều. Nhưng có một Bồ tát được nhiều người nhớ tưởng, tôn thờ kính ngưỡng là Bồ tát Quan AÂm. Bồ tát Quan AÂm nghe tiếng kêu đau khổ của chúng sanhTa bà, Ngài xuất hiện dưới 33 dạng thân khác nhau. 

Bồ tát ở phương Đông đến Ta bà cũng nhiều. Trong kinh Duy Ma, Đức Phật giới thiệu Bồ tát Duy Ma Cật từ thế giới Diệu Hỷ hiện thân lại Ta bà. Ngài chỉ xuất hiện dưới hình thức cư sĩ, mà tác động của Ngài ảnh hưởng mọi người.

 Tuy cùng là Bồ tát đồng một hạnh làm lợi ích chúng sanh, việc làm của hai Bồ tát Quan AÂm và Duy Ma khác nhau. Từ khác biệt này chúng ta theo dấu chân Quan AÂm về thế giới phương Tây nhận thấy muôn màu muôn vẻ. Vì thế, đức Quan AÂm hiện lên nhân gian cũng chi phối xã hội dưới muôn hình dạng khác nhau. 

Trái lại, thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông thuần tịnh; nên Duy Ma đến Ta bà với tư cách thuần một, không tạp. Ngài không cần hiện đủ tất cả thân hình, nhưng chi phối được tâm tưởng của mọi người dưới dạng tịnh tâm.

 Vì thế giới Ta bàthế giới tương đối, Phật phải nói hai pháp tương đối : động và tịnh. Từ đó phát sinh ra hai pháp môn tu : pháp môn Tịnh độ đưa hành giả về thế giới phương Tây của Phật A Di Đàpháp môn Thiền để hành giả trở về bản tâm thanh tịnh của chính mình. Và từ thanh tịnh này vẫn tạo được thế vạn năng không kém. 

Thế giới phương Đông và phương Tây gợi cho chúng ta có thêm suy nghĩ về hiện tượng giới và bản thể giới. Thế giới Diệu Hỷ của Đức Phật Vô Động phải chăng diễn tả một dạng khác của bản thể giới. Và thế giới Cực Lạc phải chăng là một dạng khác của hiện tượng giới. Tất cả những gì Phật A Di Đà xây dựng thành Cực Lạc, là quá trình bắt nguồn từ hiện tượng để phát triển hiện tượng

Tịnh Phật quốc độ hay xây dựng thế giới hiện tượng tốt đẹp đến mức nào, tùy theo trí khôn và khả năng của hành giả. Đạt đến khả năng cùng tột và trí tuệ siêu tuyệt như Phật A Di Đà, sẽ hình thành được thế giới Cực Lạc

Thật vậy, đứng về mặt hiện tượng, nếu hành giả có tầm hiểu biết tuyệt đỉnh chỉ đạo, thì tất cả người và vật đều theo ý muốn. Ở đó phải là Cực Lạc, không còn có yêu cầu hay vấn đề đặt ra nữa. Ngược lại, thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông đi về bản thể của sự vật, không đi về sự tướng của sự vật. Không phân biệt, vận dụng, chi phối sự tướng nữa, vì dưới mắt hành giả tất cả pháp đều như huyễn. Sự vật tồn tại trong trạng thái sanh diệt, không có pháp nào tồn tại vĩnh viễn. Tất cả việc trần gian cuối cùng đều quy về Không. Thế giới Diệu Hỷ của Phật Vô Độngthế giới Không, thế giới Thiền học, thế giới của tự tánh, của bản tâm

Tóm lại, chúng ta tu hành dưới hai dạng. Một dạng hướng ngoại cho những hành giảnhân duyên với Phật A Di Đà. Và một dạng hướng nội cho hành giảnhân duyên với Phật Vô Động.

Trên bước đường tu, hành giả đừng để tâm giao động. Bằng mọi cách, phải đạt đến trạng thái tâm hồn yên tĩnh, là mức khởi đầu để trở về thế giới Vô Động.

 Duy Ma cho biết Ngài thấy Như Lai qua trạng thái diễn biến của tâm. Tâm Ngài hoàn toàn không giao động trước sự vật. Vấn đề giữ giớiphá giới, tốt và xấu không còn tồn tại trong lòng Duy Ma.

 Duy Ma sanh ở thế giới Phật Vô Động, Ngài qua thế giới Ta bà. Nghĩa là trạng thái sanh diệt của cuộc đời không làm Ngài giao động. Ngài thanh tịnh hoàn toàn mới mang danh xưng Tịnh Danh, tức Duy Ma đã tìm thấy Như Lai rồi. 

Ngài Thiên Thai ví tâm chúng ta như mặt nước phẳng để ánh trăng hiện vào. Đối với hành giả, vấn đề quan trọng làm sao có mặt nước để bắt được ánh trăng; làm thế nào tâm ta hoàn toàn yên lặng để thấy được Như Lai

Chính Phật Thích Ca khi tu hành đạo Bồ tát cũng chỉ chuyên trụ một niệm tâm vô động, dù việc thế gian luôn biến động; nên Ngài được thọ kýVô Động Bồ tát

Riêng tôi, nhờ nương theo pháp Duy Ma dạy đối trước mọi sự kiện xảy đến cho mình thường tự kiểm tra tâm lượng của tôi xem thử tham sân phiền não còn áp đảo không. Nó vừa khuấy động, tôi trấn áp ngay. Tôi suy nghĩ và trắc nghiệm pháp tu này nhiều, nên sống trong môi trường càng động loạn bao nhiêu tôi càng từ bỏ rời xa nó bấy nhiêu. Nhờ sống an trụ trong bất động, tôi biết vấn đề chính xácgiải quyết đúng đắn, trưởng thành trên đường đạo.

Bước theo dấu chân Duy Ma, trực nhận được sự gia bị của Phật Vô Động, hành giảPhật Vô Động thông với nhau, hành giả mới có tâm hồn bất động trong thế giới động loạn. 

Vì vậy, nếu khôngnhân duyên đắc độ với một Đức Phật nào đó, chúng ta không tu theo pháp Ngài chỉ dạy được. Nhờ nhân duyên căn lành tạo thành sức thu hút giữa ta và Phật. Tuy không gần Phật trên hiện tượng giới, nhưng tâm hồn ta và Phật thông nhau, mới nhận được sự gia bị, mà người ngoại cuộc không thể nào cảm được.

Trở về thế giới phương Đông của Phật Vô Động, nghĩa là hành giả đi lần về lý tánh để hiểu sự vật dưới dạng nguyên thể và tiến lên thực nghiệm trong sinh hoạt tâm linh để nắm bắt được, vận dụng được lý tánh. Bước vào con đường lý tánh, hành giả xa rời sự tướng bên ngoài, tất nhiên thế giới trở thành Không. 

Các La hán đắc đạo cũng an trụ thế giới Không để không thấy sanh diệt mà đi lần vô lý tánh. Tuy nhiên, thế giới Không này không thật, vì thế giới hiện tượng vẫn hiện hữu. Lấy ví dụ dễ hiểu như khi tôi trụ tâm lại, dù trước mắt tôi có thực đông người, nhưng đối với tôi quý vị đều biến mất.

 Thế giới KHÔNG này là thế giới KHÔNG của hành giả tu Thiền, một thế giới quan thuần lý khi hành giả nhiếp tâm hay hồi quang phản chiếu, đi ngược về lý tánh hay bản thể, xa rời hiện tượng trần cấu

Trên bước đường trở về thế giới thể tánh của Đức Phật Vô Động, hành giả phản văn tự kỷ, đi vào chiều sâu của tâm hồn để tìm ra thế giới Diệu Hỷ hay tìm nguồn vui của chính tâm hồn mình, không còn lệ thuộc ngoại cảnh. An trú trong Diệu Hỷ mới tu được. Còn mượn thú vui của trần tục để sống, ta không bao giờ thỏa mãnđời đời ở trong sanh tử

Thế giới bản tâm hay tự tánh của người tu Thiền so với thế giới hiện tượng của chúng sanh hoàn toàn khác hẳn. Từ trong thế giới Không này, vật hiện hữu. Nhưng bất giác, một vọng tâm hiện thì muôn ngàn thế giới trùng trùng duyên khởi nổi dậy. 

Sanh diệt trong tâm biến hiện nhanh chóng, linh hoạt hơn sanh diệt của hiện tượng bên ngoài. Chính vì vậy, Ngài Thiên Thai chứng ngộ thấy được trong một niệm tâm của chúng sanh có đến 3000 thế giới. Bồ tát đắc đạo có thể thu vô số kiếp trong vị lai thành một niệm tâm.

Hành giả khởi tu từ thế giới hiện tượng đi vào thế giới bản thể rất khó. Vì giữa thế giới lý tánh nội tâmthế giới hiện tượng của “Thức” có một sự ngăn cách rất lớn. Vượt qua bức màn sắt giữa hiện tượngbản thểvấn đề không đơn giản

Hành giả tu Thiềntrạng thái tâm yên tĩnh và nếu có nhân duyên căn lành với Đức Phật Vô Động, sẽ thâm nhập thế giới của Ngài. Nếu không, hành giả cũng dễ dàng lọt qua thế giới ma của ngoại đạo

Những người tham dự pháp hội Linh Sơn được Phật Thích Ca nâng lên thế giới KHÔNG, mới thấy được Phật Vô Động. Hành giả muốn diện kiến Phật Vô Động, cũng phải đạt đến trạng thái tâm Khôngthế giới hiện tượng hoàn toàn biến mất.

Từ thế giới hiện tượng, hành giả từng bước một vượt qua vô số chướng ngại để đến thế giới lý tánh và từ thế giới lý tánh đi ngược lại hiện tượng cuộc đời làm đạo. Như vậy, hành giả bước đúng lộ trình của Duy Ma đã đi từ thế giới Diệu Hỷ đến Ta bà và từ Ta bà trở về Diệu Hỷ, thể hiện được lý tánh vô ngại.

 Đi đến cùng tốt của lý tánh sẽ bắt gặp thế giới Diệu Hỷ, đó là thế giới tâm hoàn toàn thanh tịnh. Từ tâm vô động, thế giới trở thành vô động, tất cả vật bấy giờ tùy tâm hiện ra cảnh. 

Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy rằng tâm ta có thể sanh tất cả pháp, giống như tất cả hoa mầu đều sanh từ đất.

 Sanh từ tâm nên hành giả điều chỉnh tâm hoàn toàn rồi, thì trên mảnh đất tâm này hành giả trồng pháp nào sẽ có pháp đó. Đây là phương cách tu trên bản thể, không tu ở hiện tượng

Vì tu ở dạng bản thể, nên trên mặt hiện tượng không thấy họ làm gì, không tụng niệm lễ bái, cúng dường nhưng đã gom được tất cả thiện pháp trong tâm và từ trong tâm lưu xuất ra tất cả thiện pháp.

 Duy Ma hiện hữusinh hoạt trên cuộc đời dưới dạng này, Ngài giáo hóa thành tựu mọi tầng lớp. Bấy giờ, toàn bộ ngũ ấm thế gian, quốc độ, chúng sanh đều từ tâm hiện. Nói chung, Bồ tát tu trên lý tánh, nên hiện thân, hiện cảnh tùy tâm

Nắm được yếu chỉ này, chúng ta biết mọi hiện tượng thế gian tốt hay xấu đều từ tâm ta sanh ra. Vì vậy, nhìn sự vật xảy đến mà biết được tâm mình và điều chỉnh tâm để vật tự tốt theo. 

Đối với người tu tâm hay tu Thiền, không việc gì trên trần gian mà không làm. Vì họ điều động vật trên lý tánh, không điều trên hiện tượng. Đức Phật Vô Động tiêu biểu cho người đi về lý tánh, khác với Đức Phật A Di Đà đi về hiện tượng.

Hai loại thế giới lý tánh và thế giới hiện tượng khác nhau đều gồm đủ trong một thế giới tương đối của Ta bà, không phải ở hai thế giới xa xôi riêng rẽ nào khác. Trở lại tự tâm con người mà sanh ra hai pháp tương đối, hành giả nương theo một trong hai pháp tương đối này để tu. 

Tuy nhiên, trụ tâm lại thì thế giới Diệu Hỷ và Cực Lạc đều ở ngay trong tâm của hành giả. Lúc ấy, loại hình thế giới thứ ba hiện ra cho hành giả, thể hiện sự lý viên dung vô ngại, giữa hiện tượngbản thể không cách ly cũng không mâu thuẫn, mà là một thể thống nhất vậy. 

 Đức Phật giới thiệu thế giới Cực Lạc hay thế giới Diệu Hỷ nhằm mục tiêu mở ra cho chúng ta thế giới xây dựng trên căn bản “Tâm tịnh, thế giới tịnh”. Ngài mang Tịnh độ đặt vào Ta bà hay triển khai mô hình thế giới lý tưởng Cực Lạc và Diệu Hỷ cho chúng ta xây dựng; không phải giới thiệu để đem con người về thế giới Cực Lạc, Diệu Hỷ.

Tóm lại, theo Duy Ma, muốn hiểu Như Lai, hành giả phải sống ở thế giới Diệu Hỷ, phải gặp Phật Vô Động và an trụ trong bản tâm thanh tịnh. Duy Ma hội đủ ba điều kiện này, Ngài kết luận rằng từ sanh tới chết, bất cứ điều gì Ngài thấy biết ở Ta bà đều là Như Lai.

Phật hỏi Duy Ma giải thích về Như Lai nghĩa là gián tiếp giải thích sinh hoạt của Đức Thích Ca cho chúng Thanh văn nhận rõ được Thích Ca chính là Như Lai.

 Trên bước đường lập chí tu hành, hành giả học hạnh vô động, giải hạnh vô động, sống trên cuộc đời với bản tâm thanh tịnh, mới thấy Thích Ca Như Lai phi thường, khả năng vô tận của Như Lai lực tồn tại bất tử qua hơn 25 thế kỷ. 

Sau khi cho đại chúng biết Duy MaBồ tát sống ở thế giới Diệu Hỷ của Phật Vô Động, Phật bảo Duy Ma hãy giới thiệu thế giới ấy. Kinh diễn tả rằng Duy Ma hiện thần thông đưa tay mặt bứt thế giới Diệu Hỷ đặt vào Ta bà

Theo tôi, thời xưa có cách diễn tả riêng của họ. Ở thời đại chúng ta, có thể hiểu vấn đề này theo lãnh vực khoa học như sau. Thí dụ thế giới khác được mang đặt vào thế giới này bằng cách qua hệ viễn thông, truyền đến các máy Tivi, người ta đưa hình ảnh các quốc gia khác nhau trên khắp năm châu cho chúng ta xem.

 Kinh Duy Ma ở thời triết học, nên chúng ta phải hiểu theo nghĩa triết học. Phật bảo Duy Ma đưa Diệu Hỷ về cho Ta bà xem vì Duy Ma đã thể hiện nếp sống Bồ tát tại đây rồi. Tất cả thành quả đó biểu lộ đầy đủ trong con người sống thật của Duy Ma. Nghĩa là Duy Ma đã thể hiện Bồ tát đạo ở thành Tỳ Da Ly, làm cho thành phố trở nên giàu đẹp, lương thiện, sống trong tình thương của Phật Vô Động. Và Duy Ma Niết bàn, Ngài cũng mang thế giới Diệu Hỷ theo, trả thành phố Tỳ Da Ly trở về đời sống hèn mọn như cũ. Đó là ý nghĩa triết học của sự kiện đem Diệu Hỷ về Ta bà.

Xá Lợi Phất hỏi Duy Ma rằng Ngài ở đây muốn qua thế giới Phật Vô Động không được. Tại sao Duy Mathế giới Vô Động mà qua đây mang thân tứ đại ngũ uẩn chi cho khổ.

 Duy Ma trả lời tứ đại ngũ uẩntứ đại ngũ uẩn, Bồ tátBồ tát. Nhìn tứ đại ngũ uẩn cho là Bồ tát, không đúng. Xác thân của Bồ tát, Duy Ma ví như chiếc áo của chúng ta. Mặc áo rách hay áo tốt cũng người đó, mặc áo Như Lai cũng vậy và áo ăn mày cũng thế thôi. Tuy áo khác màu, nhưng người vẫn là một.

Để trả lời tâm niệm của Xá Lợi Phất thương hại cho Bồ tát vào nhân gian phải thọ khổ, Duy Ma hỏi Xá Lợi Phất ánh sáng mặt trời chui vào bóng tối, ánh sáng có bị bóng tối làm khổ không. Ánh sáng đạo lý làm sáng lòng người, thì có bị lòng người làm khổ nó không ? 

Theo Duy Ma, lòng người có sáng có tối, khi khổ khi vui; nhưng tính chất của ánh sáng không bao giờ thay đổi, nó đến đâu chỉ làm sáng tỏ nơi đó. Cũng vậy Bồ tát hiện hữu trên cuộc đời làm sáng đẹp cuộc đời bao nhiêu, bản chất giác ngộ của các Ngài cũng không vì đó mà đổi thay. 

Bồ tát tồn tại song hành với chúng sanh trên vạn nẻo đường đời bằng cách khoác vào người cái thân già, trẻ, giàu, nghèo, sang, hèn chỉ nhằm thể hiện mục tiêu duy nhất là mang lợi lạc, an vui, giải thoát cho mọi người

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12510)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10402)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11666)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28832)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11462)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17458)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53089)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21414)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19263)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12429)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26058)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13329)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14395)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13142)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11621)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11632)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14520)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20496)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19002)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18674)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12202)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13876)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15050)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14004)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11411)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17206)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14988)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20228)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14631)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15077)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13007)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11677)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13180)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18355)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11512)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12897)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18440)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant