Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 13 Pháp Cúng Dường

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7436)
Phẩm 13 Pháp Cúng Dường

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 – 1999

 

PHẨM 13.PHÁP CÚNG DƯỜNG

I – LƯỢC VĂN KINH

Thiên Đế Thích nhận được pháp bất tư nghì giải thoát của Bồ tát quá hay, nên phát nguyện xin hộ trì pháp này lưu lại cho đời sau

Phật liền dạy Đế Thích rằng công đức của người bảo vệ kinh này lớn gấp bội lần hơn người lo tứ sự cúng dường chư Phật mười phương ba đời.

Phật kể cho vua Đế Thích nghe câu chuyện xưa có vua Bảo Cái Chuyển luân Thánh vương dùng chánh pháp cai trị, nước của ông rất thanh bình, nhân dân được sung sướng.

Vua Bảo Cái chuyên cúng dường Đức Dược Vương Như Lai và 1.000 người con cũng nghe theo lời vua cha, thường đến cúng dường Phật. Người con út tên Nguyệt Cái nghe trong hư không tiếng nói của chư Thiên nhắc rằng nên đến hỏi Dược Vương Như Lai cách cúng dường tối thượngpháp cúng dường.

Vương tử Nguyệt Cái theo Phật Dược Vương, nghe được pháp cúng dường, ông liền được pháp nhu thuận nhẫn. Ông cởi y báu cúng Phậtphát nguyện sẽ thực hành pháp cúng dường sau khi Phật diệt độ để giữ gìn chánh pháp.

Vương tử Nguyệt Cái được Phật thọ ký. Sau đó, ông xuất gia, tu tập mãn 10 tiểu kiếp, đầy đủ đạo hạnh Bồ tát, thành Phật hiệu là Bảo Diệm Như Lai. 1.000 người con của vua là 1.000 vị Phật trong đời hiền kiếp, mà Đức Ca La Cưu Tôn Đà thành Phật trước hết. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Lầu Chí. Nguyệt Cái, nay chính là Đức Phật Thích Ca.

II – GIẢI THÍCH

Thiên Đế Thích cảm nhận được pháp bất tư nghì giải thoát của Bồ tát quá tuyệt diệu, Ngài phát nguyện với Đức Phật, xin hộ trì pháp này lưu lại cho đời sau được lợi lạc. Nếu không, pháp sẽ bị mai một, uổng phí.

Tôi suy nghĩ, vẫn chưa nhận được cái hay của Đế Thích khen ngợi. Vì người bình thường muốn hiểu việc của người trí, còn khó bắt kịp; huống gì phàm phu chúng ta so với chư ThiênBồ tát, còn cách xa vạn dặm.

Câu hỏi của Đế Thích làm thế nào hộ trì pháp bất tư nghì giải thoát, gợi cho chúng ta suy nghĩ pháp Phật có hai loại : Pháp giải thoát hiểu được và pháp giải thoát không hiểu được. 

Pháp giải thoát hiểu được thì cô đọng trong kinh và chúng ta thể nghiệm được. Đế Thích chỉ quý trọng pháp giải thoát không hiểu được, gợi cho chúng ta cảm nhận rằng giải thoát của Bồ tát vô hạn, đáng quý và cần bảo trì.

Đế Thích là danh xưng của Ấn Độ, hiểu theo ta là Ngọc Hoàng thượng đế. Ngọc Hoàng thượng đế theo kinh Hoa Nghiêm tương ưng với Bồ tát đệ tam địa. Đế Thích đã vượt qua hai pháp bố thítrì giới ba la mật, đã thành tựu pháp nhẫn nhục ba la mật. Trong tứ nhiếp pháp, ông đã hoàn thành bố thí, ái ngữ, lợi hành. Đứng ở vị trí của Bồ tát đệ tam địa, Đế Thích mới thấy Bồ tát bất tư nghì giải thoát. Tuy nhiên, cũng chỉ mới là cái thấy chập chờn.

Giai đoạn một, Bồ tát sơ địa thành tựu pháp bố thí, trở thành Hộ Quốc nhân vương. Vua thể hiện tài thí, pháp thívô úy thí qua ba việc căn bản : giải quyết được cơm ăn, áo mặc, nhà ở, việc làm cho người và giữ gìn bờ cõi, đất nước thanh bình. Mỗi khi niệm Nam mô Hộ Quốc nhân vương Bồ tát, nghĩa là dưới mắt của người tu Hoa Nghiêm, ông vua giữ gìn đất nước là Bồ tát Hộ Quốc nhân vương, tiêu biểu như vua Trần Nhân Tôn của chúng ta.

Giai đoạn hai, tiến lên Bồ tát đệ nhị địa, tu pháp trì giới. Giới của Bồ tát khác với chủ nghĩa giới điều. Trì giới thanh tịnh theo Bồ tátđiều chỉnh ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thân thanh tịnh là làm những việc đạo đức, kiểu mẫu được người quý mến. Khẩu nghiệp thanh tịnh, có lời nói nhu hòa, giọng nói êm tai mát lòng người. Ý nghiệp thanh tịnh, trang nghiêm bằng tứ vô lượng tâm : từ bi hỷ xả.

Đạt được giới đức thuần tịnh, giống Phật, không còn tỳ vết, hiện thân trên cuộc đời làm Chuyển luân Thánh vương, chỉ dùng chánh pháp để điều phục người.

Chuyển luân Thánh vương nhờ tu trì giới, có thất bảo là bảy việc mà người thường không có. Trước tiên, Chuyển luân Thánh vương phải có kim ấn hay thiên ấn là ấn tượng hay dấu hiệu mà người thế gian không có; như Phật Thích Cathiên luân bức là một đường chỉ ở dưới bàn chân giống hình bánh xe chuyển pháp luân. Thứ hai là ông có tượng binh mạnh nhất, tức voi trắng sáu ngà. Và cũng có đoàn kỵ binh vô địch. Kế đến, ông được nhiều người hiền đức giúp việc. Và điều kiện sau cùng là Chuyển luân Thánh vương ra đời phải có Đức Phật, phải được Phật hộ niệm, tức phải có trí tuệ sáng suốt chỉ đạo

Hiểu theo tinh thần Hoa Nghiêm, Phật này là Phật tâm. Bên ngoài đầy đủ, nhưng thiếu ông Phật bên trong cũng không thành. Bồ tát nương với Phật làm việc, đó là Phật thực hay tâm sáng suốt hướng dẫn cũng được.

Qua giai đoạn làm Chuyển luân Thánh vương, đến Trời Đế Thích tu nhẫn nhục và lợi hành là chính, làm bất cứ việc gì cũng vì người, không vì mình. Theo kinh Hoa Nghiêm, muốn làm Trời Đế Thích phải mang hết tâm lực, nguyện lực phục vụ chúng sanh, không phải làm để được cung kính.

Đạt pháp nhẫn ba la mật của Bồ tát khác với nhẫn nhục của người thường ở điểm Đế Thích có hạt châu. Hiểu theo Đại thừa, tâm sáng suốt ví như hạt châu. Muốn nhẫn theo Bồ tát phải thấy tất cả diễn biến trên thế gian; thấy đúng mới nhẫn được.

Nhờ tâm sáng suốt, Đế Thích thấy rõ, cai quản 33 tầng trời mà vẫn ngồi yênDiệu pháp đường giảng kinh. Ngày xưa khó hiểu việc ngồi một chỗ, kiểm soát được mọi nơi. Ngày nay, với khoa học hiện đại, điều này không còn khó hiểu. Chúng ta có thể ngồi yên vẫn kiểm soát khắp nơi qua radar. 

Muốn nhẫn phải biết rõ người, mới điều động được họ. Bồ tát đệ tam địa biết được tất cả căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, nhưng họ không biết Bồ tát. Nhẫn ba la mật nghĩa là không còn gì trên cuộc đờiBồ tát phải nhịn, vì mọi sinh hoạt đổi thay thế nào cũng nằm trong quỹ đạo của Ngài.

Đạt được tâm sáng suốt, thấy 33 tầng trời, Đế Thích mới gần Duy Ma, khả dĩ hiểu Duy Ma, hiểu việc làm của Bồ tát. Ngài mới phát nguyện bất cứ nơi nào có kinh Bất tư nghì giải thoát, sẽ dùng hết khả năng bảo vệ. Đế Thích không bảo vệ bộ kinh bằng giấy. Ngài bảo vệ Bất tư nghì giải thoát kinh là bảo vệ cái gì làm cho người đạt đến giải thoát, một sự giải thoát nằm ngoài suy nghĩ biết được. Đây là điểm khác biệt giữa tư tưởng Tiểu thừaĐại thừa.

Tiểu thừa dạy chúng ta chỉ nên tin và làm theo những gì hiểu được. Nhưng đến pháp bất tư nghì giải thoát, chúng ta thấy rõ sự kiệnXá Lợi Phất không hiểu được vẫn là sự thật, là chân lý. Thật vậy, thử nghĩ xem những phát minh ngày nay của chúng ta, làm thế nào 2.000 năm trước hiểu được, dù đó là sự thật.

Vì vậy, kinh Đại thừa thường phủ nhận hiểu biếtgiới hạn của con người. Thiên thượngĐế Thích thấy rõ pháp của Bồ tát, mới phát nguyện hết lòng giữ gìn kinh Bất tư nghì giải thoát. Trí hiểu biết của con người trên nhân gian không hiểu được, nên họ không phát nguyện giữ kinh này.

Bất tư nghì giải thoát kinh là cái không hiểu, được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống của Duy Ma. Thanh văn không thể hiểu những diễn biến từ phẩm 1 đến 12. Việc làm của Duy Ma khởi đầu xây dựng nhân gian Tịnh độ, cuối cùng quay về tự tánh thanh tịnh của tâm, cũng có nghĩa là trở về với Đức Phật Vô Động ở nước Diệu Hỷ.

Phật dạy làm cách nào bảo vệ toàn bộ pháp bất tư nghì giải thoát mới là điều quý nhất trên cuộc đời. Ngài giả sử có người rất thương kính Phật, lo đầy đủ tứ sự cúng dường chư Phật mười phương hiện tại, quá khứ, vị lai. Phước của người này cũng không bằng công đức của người giữ gìn Bất tư nghì giải thoát kinh.

Kinh Đại thừa thường đặt căn bản trên giáo, lý, hạnh, quả. Người tu phải biết nghĩa lý sâu xa bên trong để giữ. Giữ nó trong hành động sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, gọi là hạnh. Và hạnh này phải dẫn đến kết quả tốt là quả bất tư nghì giải thoát.

Trong cuộc sống, chúng ta thể hiện cách sống thế nào cho người thấy được bất tư nghì. Nói cách khác, làm được như Duy Ma mới là giữ kinh. Giữ giáo lý sống của Đức Phật trên thế gian quý trọng hơn là giữ giáo lý chết. Đại thừa chủ trương đạo yếu Tăng hoằng là vậy. Đạo pháp chỉ tồn tại và phát triển mạnh khi hiện hữu ông Tăng đắc đạo. Và đạo pháp lu mờ theo sự bất tài kém đức của ông Tăng. Thực tế lịch sử đã chứng minh ý này. Hình ảnh Hòa thượng Quảng Đức an nhiên ngồi trong ngọn lửa, tiêu biểu cho hiện tượng bất tư nghì giải thoát, khiến mọi người phải thán phục, quy ngưỡng đạo Phật. Ngài đã thể hiện trọn vẹn sự tối thượng cúng dường, đó là hạnh cúng dường.

Hành giả cúng dường pháp, thành tựu được việc mà người thường không làm được, ảnh hưởng cho người phát tâm bồ đềđắc đạo trong tương lai. Vì thế, pháp cúng dường quan trọng hơn hình thức cúng dường phẩm vật. Đức Phật có tự thọ dụng thân, việc ăn không còn cần thiết đối với Ngài. Và Phật nhập diệt, chúng ta xây tháp thờ, tỏ lòng cung kính Ngài. Đôi khi, chúng ta thấy nhiều ngôi tháp rêu phong, chẳng ích lợi gì, còn ngôi tháp sống trên cuộc đời đáng quý biết bao.

Phật nhắc chuyện quá khứ cho Thiên Đế Thích nghe. Xưa có vua Bảo Cái cai trị nước thật bình ổn, không phải sử dụng đến binh lực. Các vua khác thấy sức mạnh của Bảo Cái quá lớn, không dám nổi loạn. Điều này cho thấy người hành pháp nhẫn nhục phải có sức mạnhtrí khôn, không phải để trấn áp người; nhưng hai đặc tánh này khiến người không dám làm ác. Nếu thế lực từ bi yếu hơn thế lực bạo động, ta dễ bị đối phương ám hại.

Nước của vua Bảo Cái thanh bình, ai cũng sống đúng chánh pháp, không phạm tội lỗi. Mọi việc trong nước đều thanh nhàn, êm xuôi. Vua Bảo Cái chỉ làm việc duy nhất là đến cúng dường Đức Dược Vương Như Lai.

Đi chùa cúng Phật, có thể hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là chùa thật bên ngoài. Nhưng hiểu theo Duy Ma, thờ Đức Phật Vô Độngtrở về chùa trong tâm, quay về tự tánh thanh tịnh của ta. Và Phật là trí tuệ, hay ta ngồi tĩnh tâm để tâm hồn lắng yên, trí tuệ phát sanh, thấy sáng suốt, giúp ích cho xã hội an lành, phát triển.

Vua Bảo Cái đi tìm Dược Vương Như Lai, có hai nghĩa : tìm người toàn trí và tìm khả năng phát triển con người. Vua gặp được Phật Dược Vương, tìm ra viên thuốc cứu tất cả bệnh. Hiểu theo ngày nay là tìm được giải pháp giải quyết được mọi gút mắt trên cuộc đời.

Bảo Cái Chuyển luân Thánh vương vừa xây dựng đế quốc thanh bình, vừa cúng dường Phật Dược Vương, nhằm diễn tả cuộc sống vừa tu hành vừa lo cho đời. Nương pháp giải thoát, bốn biển thái bình; và ngược lại, nhờ đất nước thái bình mà phát triển giải thoát. Hai pháp này hỗ tương phát triển, thăng hoa cuộc sống. Tốt đạo đẹp đời là quan niệm của Bồ tát, trái với Thanh văn chủ trương dấn thân vào đời sẽ không giải thoát.

Với kinh nghiệm tu hànhkinh nghiệm trị nước an dân dài lâu, Bảo Cái dạy 1.000 người con phải tiếp nối sự nghiệp của Ngài bằng cách cúng dường chư Phật. Các con đều nghe lời vua dạy. Người con út là Nguyệt Cái tự nghĩ rằng còn có pháp nào thù thắng hơn việc cúng dường Phật hay không. Lúc ấy, ông nghe trên hư không nói rằng : Thiện nam tử, có cách cúng dường tối thượngpháp cúng dường, ông nên đến Phật Dược Vương hỏi về pháp cúng dường.

Theo tinh thần Đại thừa, từ thấp lên cao có ba pháp cúng dường : phẩm vật cúng dường, kính tín cúng dường và hạnh cúng dường.

Đa số chúng ta thường dâng cúng phẩm vật. Tuy nhiên, pháp này ngày nay không còn giá trị giống như khi Phật tại thế. Phật tại thế, hiện tiền Tam Bảo mang đầy đủ tính chất quý báu, nên Phật tử cúng dường Tam Bảo là có công đức. Cúng dường tạo điều kiện cho Tam Bảo tồn tại, thực tế là mang phẩm vật cúng dường để nuôi sống Phật và Tăng. Các Ngài là những người thể hiện pháp hay chân lý, làm lợi ích cho cuộc đời. Chúng ta cúng dường là đã góp phần với các Ngài để lo cho người khác thăng hoa cuộc sống.

Nhưng khi Phật nhập diệt, cúng dường Tam Bảo mang ý nghĩa khác. Cúng dường tượng Phật, tất nhiên tượng không ăn, ta ăn. Phần cúng dường như vậy coi như mất tác dụng.

Phật Niết bàn, Bồ tát thường xây tháp cúng dường Phật hoặc ghi chép lời Phật dạy để cúng dường. Cúng dưới hình thức này thể hiện tâm thành, nên gọi là kính tín cúng dường. Chúng ta tin phước đức, trí tuệ của Đức Phật viên mãn, không cần thọ lãnh phẩm vật cúng dường. Vì thế, chúng ta cúng dường vật gì tiêu biểu cho Phật như tháp thờ xá lợi Phật hoặc tiêu biểu cho lòng kính trọng của ta đối với Phật, đối với giáo pháp của Ngài ghi lại trong kinh điển. Đây là pháp cúng dường, quan trọng hơn là phẩm vật cúng dường.

Thật vậy, chúng ta nhận chân rằng Phật xuất hiện trên cuộc đời không ngoài mục đích mang tri kiến cho ta, giúp ta giải thoát như Ngài. Chúng ta trân trọng kính tin Phật và tin giáo pháp của Ngài dạy là chân lý. Pháp Phật còn tồn tại làm lợi ích cho mọi người cũng giống như Phật còn tại thế.

Tuy nhiên, kính tin và trân trọng lời Phật dạy vẫn chưa đủ. Nếu để giáo pháp của Phật sang một bên và tiếp tục công việc thường nhật của chúng ta, thì giáo pháp cũng trở thành vô ích.

Sau khi Phật diệt độ, xây tháp, in kinh nhiều. Nhưng không ai đọc kinh, hiểu kinh, không ai tu, tháp Phật không được quý trọng, thì tháp và kinh Phật không có tác dụng, không có giá trị. Thực tế cho thấy tháp và chùa chỉ còn tác dụng một thời gian ngắn sau Phật diệt độ, khi lòng người còn hoài vọng mạnh về Đức Phật. Tuy nhiên, cách Phật càng xa, niềm tin đối với Ngài càng giảm theo và lời Phật dạy trong kinh cũng mất sức sống. Chùa tháp lúc ấy có đồ sộ nguy nga mấy, cũng rơi vào quên lãng, trở thành điêu tànkinh điển chỉ còn là mớ giáo điều khô chết.

Đến thời kỳ mạt pháp, xây dựng chùa thì dễ, nhưng đào tạo chư Tăng thì rất khó. Nhất là đào tạo Tăng tài có đủ tư cách duy trì Phật pháp trên thế gian, quả thật là khó vô cùng. Đến thời vua A Dục mới nghĩ đến việc đào tạo Tăng tài. Việc này hoàn toàn vấp phải sai lầm, thất bại dưới thời vua Lương Võ Đế, khi ông cho tù nhân làm thầy tu. Người tu là mẫu người đầy đủ tri thứcđạo đức mới khả dĩ duy trì được sự thật cao quý trên cuộc đời.

thời mạt pháp, Phật khuyên chúng ta tu hạnh cúng dường, thể hiện việc làm lợi ích cho đời là cách cúng dường tốt nhất. Chính Phật Thích Ca tiêu biểu mẫu người thực hiện hạnh cúng dường một cách trọn vẹn

Ngài kể lại tiền thân là vương tử Nguyệt Cái thấy Phật Dược Vương ảnh hưởng an lành cho xã hội. Nguyệt Cái cũng phát tâm muốn làm an vui lợi lạc cho người, giống như Phật Dược Vương

Đức Phật Dược Vương thấy Ngài thông minh, đạo đức, mới khuyên Ngài tu, sẽ đạt được lực bất tư nghì như Phật. Không tu, không thể có tuệ giác, tức nhận thức vượt ngoài khả năng của người đời.

Nguyệt Cái nỗ lực tu hành từ thời Bảo Cái Chuyển luân Thánh vương cho đến khi Ngài thành Phật Thích Ca. Quả vị mà Ngài thành tựu chính là pháp cúng dường hay hạnh cúng dường.

Đến đây, mở ra cánh cửa nhằm khuyến khích hàng Thanh văn phát triển Bồ tát hạnh, tiến đến Phật quả, hay đủ tư cách của vị xuất trần thượng sĩ, làm việc thay Phật, mới quan trọng.

Nếu chỉ đúc tượng, xây chùa, đầu tư phát triển vật chất quá nhiều; trong khi tinh thần bị hao mòn, dốt nát, chùa cũng sẽ bị tiêu hủy. Thật vậy, kinh nghiệm lịch sử cho thấy biết bao nhiêu chùa ở Trung Á bị Hồi giáo đốt sạch, giết sạch tu sĩ Phật giáo. Phật giáo tồn tại, phát triển mạnh khi đệ tử Phật đầu tư vào tri thức, đạo đức, vào việc làm lợi ích cho đời; điển hình như Phật giáo Lý Trần, thử hỏi ai tiêu diệt chúng ta được.

Ý thức sâu sắc điều này, suốt cuộc đời tôi chỉ lo học, lo xây chùa trong tâm tôi, cố gắng nâng tri thức của bản thân và của Tăng Ni Phật tử cho ngang tầm với xã hội. Có như vậy, xã hội mới chấp nhận chúng ta. Chúng ta không đi trước, thì cũng bằng thiên hạ, không đứng sau. Đó là ý nghĩa hạnh cúng dường trong ba pháp cúng dường.

Có thể nói thời chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp, đều phải có pháp tu tương ưng riêng. Tuy nhiên, điểm chung nhất đòi hỏi phải có Phật hay Bồ tát gần bằng quả vị Phật, mới có khả năng thay Phật. Nghĩa là muốn duy trì Phật pháp, không có cách nào khác hơn là chúng ta phải thành tựu tri thứcđạo đức vượt trội hơn xã hội.

Những mẫu người tiêu biểu cho hạnh cúng dường, đáng được nhắc đến như con vua A Dục. Ngài bỏ ngôi đi tu, sang truyền giáoTích Lan và làm Tổ ở đó, biên soạn tạng kinh Pali. Khi xuất gia, Ngài phát tâm thọ Bồ tát giớitu hành là việc chính, còn xây chùa chỉ là phần phụ. Hạnh của Ngài nói lên đạo Vô thượng quý hơn tất cả những gì của thế gian, nên sẵn sàng từ bỏ ham muốn ngũ dục của đời để đổi lấy giáo pháp cao thượng. Nếu không có những mẫu người này, không sao nói lên được pháp bất tư nghì giải thoát của Phật.

Ngoài ra, Thánh Đức thái tử cũng thể hiện trọn vẹn tinh thần hạnh cúng dường theo kinh Duy Ma. Ông là thái tử Nhật Bản, rất thông minh. Vào thế kỷ thứ 6, ông đã biên soạn Hiến pháp Nhật và chính ông giảng bộ kinh Duy Ma. Lòng mộ đạo và cuộc sống đạo đức của ông cũng như tài lãnh đạo khéo léo, đã thể hiện bài pháp sống động, tác dụng hữu ích cho người dân Nhật.

Việt Nam, Tuệ Trung Thượng sĩ giảng bộ kinh Duy Ma, làm Tổ sư của Thiền phái Trúc LâmĐiều ngự giác hoàng Trần Nhân Tôn cũng đã thể hiện trọn vẹn tinh thần phục vụ chúng sanhcúng dường Phật. Khi thành tựu hạnh nguyện lợi lạc quần sanh, Ngài xem địa vị danh vọng vô thường, ảo mộng, sẵn sàng từ bỏ ngai vàng như chiếc giày rách, lên núi tu hành. Các Ngài không giảng kinh suông trên lý thuyết, nhưng đã chứng minh sâu sắc giáo lý vô thượng của Phật bằng cả cuộc đời phục vụ ích nước lợi dân, vẫn không rời bản vị giải thoát.

Tóm lại, trong pháp cúng dường, quan trọng nhất là hạnh cúng dường. Nghĩa là chúng ta nắm bắt được giáo pháp của Phật truyền trao, ứng dụng vào cuộc sống và nhận được an vui giải thoát, tri kiến của chúng ta thăng hoa trên đường đạo. Và cuối cùng, chúng ta thâm nhập thế giới bất tư nghì giải thoát, thành tựu quả vị Vô thượng bồ đề. Đạt đến cứu cánh này, chư Phật mười phương đều hoan hỷ, chúng ta mới báo đáp phần nào công ơn muôn một của đức Từ phụ Thích Ca Như Lai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22310)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16031)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15042)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18973)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14456)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18639)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14438)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13599)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13562)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11830)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13277)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13675)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13949)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13259)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15034)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16170)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11091)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16466)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11927)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17609)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12885)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13723)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14864)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16402)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13139)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12103)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12781)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12927)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14186)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14140)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16493)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12389)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14398)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11335)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11044)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13203)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13899)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13173)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13011)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13516)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12745)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10241)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13978)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10244)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13712)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16276)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11979)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12989)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11664)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12692)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10808)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11014)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10955)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11908)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12776)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11077)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12632)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11342)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant