Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 13 Pháp Cúng Dường

09 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7437)
Phẩm 13 Pháp Cúng Dường

LƯỢC GIẢI KINH DUY MA
Thượng Tọa Thích Trí Quảng
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành PL. 2535 – 1999

 

PHẨM 13.PHÁP CÚNG DƯỜNG

I – LƯỢC VĂN KINH

Thiên Đế Thích nhận được pháp bất tư nghì giải thoát của Bồ tát quá hay, nên phát nguyện xin hộ trì pháp này lưu lại cho đời sau

Phật liền dạy Đế Thích rằng công đức của người bảo vệ kinh này lớn gấp bội lần hơn người lo tứ sự cúng dường chư Phật mười phương ba đời.

Phật kể cho vua Đế Thích nghe câu chuyện xưa có vua Bảo Cái Chuyển luân Thánh vương dùng chánh pháp cai trị, nước của ông rất thanh bình, nhân dân được sung sướng.

Vua Bảo Cái chuyên cúng dường Đức Dược Vương Như Lai và 1.000 người con cũng nghe theo lời vua cha, thường đến cúng dường Phật. Người con út tên Nguyệt Cái nghe trong hư không tiếng nói của chư Thiên nhắc rằng nên đến hỏi Dược Vương Như Lai cách cúng dường tối thượngpháp cúng dường.

Vương tử Nguyệt Cái theo Phật Dược Vương, nghe được pháp cúng dường, ông liền được pháp nhu thuận nhẫn. Ông cởi y báu cúng Phậtphát nguyện sẽ thực hành pháp cúng dường sau khi Phật diệt độ để giữ gìn chánh pháp.

Vương tử Nguyệt Cái được Phật thọ ký. Sau đó, ông xuất gia, tu tập mãn 10 tiểu kiếp, đầy đủ đạo hạnh Bồ tát, thành Phật hiệu là Bảo Diệm Như Lai. 1.000 người con của vua là 1.000 vị Phật trong đời hiền kiếp, mà Đức Ca La Cưu Tôn Đà thành Phật trước hết. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Lầu Chí. Nguyệt Cái, nay chính là Đức Phật Thích Ca.

II – GIẢI THÍCH

Thiên Đế Thích cảm nhận được pháp bất tư nghì giải thoát của Bồ tát quá tuyệt diệu, Ngài phát nguyện với Đức Phật, xin hộ trì pháp này lưu lại cho đời sau được lợi lạc. Nếu không, pháp sẽ bị mai một, uổng phí.

Tôi suy nghĩ, vẫn chưa nhận được cái hay của Đế Thích khen ngợi. Vì người bình thường muốn hiểu việc của người trí, còn khó bắt kịp; huống gì phàm phu chúng ta so với chư ThiênBồ tát, còn cách xa vạn dặm.

Câu hỏi của Đế Thích làm thế nào hộ trì pháp bất tư nghì giải thoát, gợi cho chúng ta suy nghĩ pháp Phật có hai loại : Pháp giải thoát hiểu được và pháp giải thoát không hiểu được. 

Pháp giải thoát hiểu được thì cô đọng trong kinh và chúng ta thể nghiệm được. Đế Thích chỉ quý trọng pháp giải thoát không hiểu được, gợi cho chúng ta cảm nhận rằng giải thoát của Bồ tát vô hạn, đáng quý và cần bảo trì.

Đế Thích là danh xưng của Ấn Độ, hiểu theo ta là Ngọc Hoàng thượng đế. Ngọc Hoàng thượng đế theo kinh Hoa Nghiêm tương ưng với Bồ tát đệ tam địa. Đế Thích đã vượt qua hai pháp bố thítrì giới ba la mật, đã thành tựu pháp nhẫn nhục ba la mật. Trong tứ nhiếp pháp, ông đã hoàn thành bố thí, ái ngữ, lợi hành. Đứng ở vị trí của Bồ tát đệ tam địa, Đế Thích mới thấy Bồ tát bất tư nghì giải thoát. Tuy nhiên, cũng chỉ mới là cái thấy chập chờn.

Giai đoạn một, Bồ tát sơ địa thành tựu pháp bố thí, trở thành Hộ Quốc nhân vương. Vua thể hiện tài thí, pháp thívô úy thí qua ba việc căn bản : giải quyết được cơm ăn, áo mặc, nhà ở, việc làm cho người và giữ gìn bờ cõi, đất nước thanh bình. Mỗi khi niệm Nam mô Hộ Quốc nhân vương Bồ tát, nghĩa là dưới mắt của người tu Hoa Nghiêm, ông vua giữ gìn đất nước là Bồ tát Hộ Quốc nhân vương, tiêu biểu như vua Trần Nhân Tôn của chúng ta.

Giai đoạn hai, tiến lên Bồ tát đệ nhị địa, tu pháp trì giới. Giới của Bồ tát khác với chủ nghĩa giới điều. Trì giới thanh tịnh theo Bồ tátđiều chỉnh ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thân thanh tịnh là làm những việc đạo đức, kiểu mẫu được người quý mến. Khẩu nghiệp thanh tịnh, có lời nói nhu hòa, giọng nói êm tai mát lòng người. Ý nghiệp thanh tịnh, trang nghiêm bằng tứ vô lượng tâm : từ bi hỷ xả.

Đạt được giới đức thuần tịnh, giống Phật, không còn tỳ vết, hiện thân trên cuộc đời làm Chuyển luân Thánh vương, chỉ dùng chánh pháp để điều phục người.

Chuyển luân Thánh vương nhờ tu trì giới, có thất bảo là bảy việc mà người thường không có. Trước tiên, Chuyển luân Thánh vương phải có kim ấn hay thiên ấn là ấn tượng hay dấu hiệu mà người thế gian không có; như Phật Thích Cathiên luân bức là một đường chỉ ở dưới bàn chân giống hình bánh xe chuyển pháp luân. Thứ hai là ông có tượng binh mạnh nhất, tức voi trắng sáu ngà. Và cũng có đoàn kỵ binh vô địch. Kế đến, ông được nhiều người hiền đức giúp việc. Và điều kiện sau cùng là Chuyển luân Thánh vương ra đời phải có Đức Phật, phải được Phật hộ niệm, tức phải có trí tuệ sáng suốt chỉ đạo

Hiểu theo tinh thần Hoa Nghiêm, Phật này là Phật tâm. Bên ngoài đầy đủ, nhưng thiếu ông Phật bên trong cũng không thành. Bồ tát nương với Phật làm việc, đó là Phật thực hay tâm sáng suốt hướng dẫn cũng được.

Qua giai đoạn làm Chuyển luân Thánh vương, đến Trời Đế Thích tu nhẫn nhục và lợi hành là chính, làm bất cứ việc gì cũng vì người, không vì mình. Theo kinh Hoa Nghiêm, muốn làm Trời Đế Thích phải mang hết tâm lực, nguyện lực phục vụ chúng sanh, không phải làm để được cung kính.

Đạt pháp nhẫn ba la mật của Bồ tát khác với nhẫn nhục của người thường ở điểm Đế Thích có hạt châu. Hiểu theo Đại thừa, tâm sáng suốt ví như hạt châu. Muốn nhẫn theo Bồ tát phải thấy tất cả diễn biến trên thế gian; thấy đúng mới nhẫn được.

Nhờ tâm sáng suốt, Đế Thích thấy rõ, cai quản 33 tầng trời mà vẫn ngồi yênDiệu pháp đường giảng kinh. Ngày xưa khó hiểu việc ngồi một chỗ, kiểm soát được mọi nơi. Ngày nay, với khoa học hiện đại, điều này không còn khó hiểu. Chúng ta có thể ngồi yên vẫn kiểm soát khắp nơi qua radar. 

Muốn nhẫn phải biết rõ người, mới điều động được họ. Bồ tát đệ tam địa biết được tất cả căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, nhưng họ không biết Bồ tát. Nhẫn ba la mật nghĩa là không còn gì trên cuộc đờiBồ tát phải nhịn, vì mọi sinh hoạt đổi thay thế nào cũng nằm trong quỹ đạo của Ngài.

Đạt được tâm sáng suốt, thấy 33 tầng trời, Đế Thích mới gần Duy Ma, khả dĩ hiểu Duy Ma, hiểu việc làm của Bồ tát. Ngài mới phát nguyện bất cứ nơi nào có kinh Bất tư nghì giải thoát, sẽ dùng hết khả năng bảo vệ. Đế Thích không bảo vệ bộ kinh bằng giấy. Ngài bảo vệ Bất tư nghì giải thoát kinh là bảo vệ cái gì làm cho người đạt đến giải thoát, một sự giải thoát nằm ngoài suy nghĩ biết được. Đây là điểm khác biệt giữa tư tưởng Tiểu thừaĐại thừa.

Tiểu thừa dạy chúng ta chỉ nên tin và làm theo những gì hiểu được. Nhưng đến pháp bất tư nghì giải thoát, chúng ta thấy rõ sự kiệnXá Lợi Phất không hiểu được vẫn là sự thật, là chân lý. Thật vậy, thử nghĩ xem những phát minh ngày nay của chúng ta, làm thế nào 2.000 năm trước hiểu được, dù đó là sự thật.

Vì vậy, kinh Đại thừa thường phủ nhận hiểu biếtgiới hạn của con người. Thiên thượngĐế Thích thấy rõ pháp của Bồ tát, mới phát nguyện hết lòng giữ gìn kinh Bất tư nghì giải thoát. Trí hiểu biết của con người trên nhân gian không hiểu được, nên họ không phát nguyện giữ kinh này.

Bất tư nghì giải thoát kinh là cái không hiểu, được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống của Duy Ma. Thanh văn không thể hiểu những diễn biến từ phẩm 1 đến 12. Việc làm của Duy Ma khởi đầu xây dựng nhân gian Tịnh độ, cuối cùng quay về tự tánh thanh tịnh của tâm, cũng có nghĩa là trở về với Đức Phật Vô Động ở nước Diệu Hỷ.

Phật dạy làm cách nào bảo vệ toàn bộ pháp bất tư nghì giải thoát mới là điều quý nhất trên cuộc đời. Ngài giả sử có người rất thương kính Phật, lo đầy đủ tứ sự cúng dường chư Phật mười phương hiện tại, quá khứ, vị lai. Phước của người này cũng không bằng công đức của người giữ gìn Bất tư nghì giải thoát kinh.

Kinh Đại thừa thường đặt căn bản trên giáo, lý, hạnh, quả. Người tu phải biết nghĩa lý sâu xa bên trong để giữ. Giữ nó trong hành động sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, gọi là hạnh. Và hạnh này phải dẫn đến kết quả tốt là quả bất tư nghì giải thoát.

Trong cuộc sống, chúng ta thể hiện cách sống thế nào cho người thấy được bất tư nghì. Nói cách khác, làm được như Duy Ma mới là giữ kinh. Giữ giáo lý sống của Đức Phật trên thế gian quý trọng hơn là giữ giáo lý chết. Đại thừa chủ trương đạo yếu Tăng hoằng là vậy. Đạo pháp chỉ tồn tại và phát triển mạnh khi hiện hữu ông Tăng đắc đạo. Và đạo pháp lu mờ theo sự bất tài kém đức của ông Tăng. Thực tế lịch sử đã chứng minh ý này. Hình ảnh Hòa thượng Quảng Đức an nhiên ngồi trong ngọn lửa, tiêu biểu cho hiện tượng bất tư nghì giải thoát, khiến mọi người phải thán phục, quy ngưỡng đạo Phật. Ngài đã thể hiện trọn vẹn sự tối thượng cúng dường, đó là hạnh cúng dường.

Hành giả cúng dường pháp, thành tựu được việc mà người thường không làm được, ảnh hưởng cho người phát tâm bồ đềđắc đạo trong tương lai. Vì thế, pháp cúng dường quan trọng hơn hình thức cúng dường phẩm vật. Đức Phật có tự thọ dụng thân, việc ăn không còn cần thiết đối với Ngài. Và Phật nhập diệt, chúng ta xây tháp thờ, tỏ lòng cung kính Ngài. Đôi khi, chúng ta thấy nhiều ngôi tháp rêu phong, chẳng ích lợi gì, còn ngôi tháp sống trên cuộc đời đáng quý biết bao.

Phật nhắc chuyện quá khứ cho Thiên Đế Thích nghe. Xưa có vua Bảo Cái cai trị nước thật bình ổn, không phải sử dụng đến binh lực. Các vua khác thấy sức mạnh của Bảo Cái quá lớn, không dám nổi loạn. Điều này cho thấy người hành pháp nhẫn nhục phải có sức mạnhtrí khôn, không phải để trấn áp người; nhưng hai đặc tánh này khiến người không dám làm ác. Nếu thế lực từ bi yếu hơn thế lực bạo động, ta dễ bị đối phương ám hại.

Nước của vua Bảo Cái thanh bình, ai cũng sống đúng chánh pháp, không phạm tội lỗi. Mọi việc trong nước đều thanh nhàn, êm xuôi. Vua Bảo Cái chỉ làm việc duy nhất là đến cúng dường Đức Dược Vương Như Lai.

Đi chùa cúng Phật, có thể hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là chùa thật bên ngoài. Nhưng hiểu theo Duy Ma, thờ Đức Phật Vô Độngtrở về chùa trong tâm, quay về tự tánh thanh tịnh của ta. Và Phật là trí tuệ, hay ta ngồi tĩnh tâm để tâm hồn lắng yên, trí tuệ phát sanh, thấy sáng suốt, giúp ích cho xã hội an lành, phát triển.

Vua Bảo Cái đi tìm Dược Vương Như Lai, có hai nghĩa : tìm người toàn trí và tìm khả năng phát triển con người. Vua gặp được Phật Dược Vương, tìm ra viên thuốc cứu tất cả bệnh. Hiểu theo ngày nay là tìm được giải pháp giải quyết được mọi gút mắt trên cuộc đời.

Bảo Cái Chuyển luân Thánh vương vừa xây dựng đế quốc thanh bình, vừa cúng dường Phật Dược Vương, nhằm diễn tả cuộc sống vừa tu hành vừa lo cho đời. Nương pháp giải thoát, bốn biển thái bình; và ngược lại, nhờ đất nước thái bình mà phát triển giải thoát. Hai pháp này hỗ tương phát triển, thăng hoa cuộc sống. Tốt đạo đẹp đời là quan niệm của Bồ tát, trái với Thanh văn chủ trương dấn thân vào đời sẽ không giải thoát.

Với kinh nghiệm tu hànhkinh nghiệm trị nước an dân dài lâu, Bảo Cái dạy 1.000 người con phải tiếp nối sự nghiệp của Ngài bằng cách cúng dường chư Phật. Các con đều nghe lời vua dạy. Người con út là Nguyệt Cái tự nghĩ rằng còn có pháp nào thù thắng hơn việc cúng dường Phật hay không. Lúc ấy, ông nghe trên hư không nói rằng : Thiện nam tử, có cách cúng dường tối thượngpháp cúng dường, ông nên đến Phật Dược Vương hỏi về pháp cúng dường.

Theo tinh thần Đại thừa, từ thấp lên cao có ba pháp cúng dường : phẩm vật cúng dường, kính tín cúng dường và hạnh cúng dường.

Đa số chúng ta thường dâng cúng phẩm vật. Tuy nhiên, pháp này ngày nay không còn giá trị giống như khi Phật tại thế. Phật tại thế, hiện tiền Tam Bảo mang đầy đủ tính chất quý báu, nên Phật tử cúng dường Tam Bảo là có công đức. Cúng dường tạo điều kiện cho Tam Bảo tồn tại, thực tế là mang phẩm vật cúng dường để nuôi sống Phật và Tăng. Các Ngài là những người thể hiện pháp hay chân lý, làm lợi ích cho cuộc đời. Chúng ta cúng dường là đã góp phần với các Ngài để lo cho người khác thăng hoa cuộc sống.

Nhưng khi Phật nhập diệt, cúng dường Tam Bảo mang ý nghĩa khác. Cúng dường tượng Phật, tất nhiên tượng không ăn, ta ăn. Phần cúng dường như vậy coi như mất tác dụng.

Phật Niết bàn, Bồ tát thường xây tháp cúng dường Phật hoặc ghi chép lời Phật dạy để cúng dường. Cúng dưới hình thức này thể hiện tâm thành, nên gọi là kính tín cúng dường. Chúng ta tin phước đức, trí tuệ của Đức Phật viên mãn, không cần thọ lãnh phẩm vật cúng dường. Vì thế, chúng ta cúng dường vật gì tiêu biểu cho Phật như tháp thờ xá lợi Phật hoặc tiêu biểu cho lòng kính trọng của ta đối với Phật, đối với giáo pháp của Ngài ghi lại trong kinh điển. Đây là pháp cúng dường, quan trọng hơn là phẩm vật cúng dường.

Thật vậy, chúng ta nhận chân rằng Phật xuất hiện trên cuộc đời không ngoài mục đích mang tri kiến cho ta, giúp ta giải thoát như Ngài. Chúng ta trân trọng kính tin Phật và tin giáo pháp của Ngài dạy là chân lý. Pháp Phật còn tồn tại làm lợi ích cho mọi người cũng giống như Phật còn tại thế.

Tuy nhiên, kính tin và trân trọng lời Phật dạy vẫn chưa đủ. Nếu để giáo pháp của Phật sang một bên và tiếp tục công việc thường nhật của chúng ta, thì giáo pháp cũng trở thành vô ích.

Sau khi Phật diệt độ, xây tháp, in kinh nhiều. Nhưng không ai đọc kinh, hiểu kinh, không ai tu, tháp Phật không được quý trọng, thì tháp và kinh Phật không có tác dụng, không có giá trị. Thực tế cho thấy tháp và chùa chỉ còn tác dụng một thời gian ngắn sau Phật diệt độ, khi lòng người còn hoài vọng mạnh về Đức Phật. Tuy nhiên, cách Phật càng xa, niềm tin đối với Ngài càng giảm theo và lời Phật dạy trong kinh cũng mất sức sống. Chùa tháp lúc ấy có đồ sộ nguy nga mấy, cũng rơi vào quên lãng, trở thành điêu tànkinh điển chỉ còn là mớ giáo điều khô chết.

Đến thời kỳ mạt pháp, xây dựng chùa thì dễ, nhưng đào tạo chư Tăng thì rất khó. Nhất là đào tạo Tăng tài có đủ tư cách duy trì Phật pháp trên thế gian, quả thật là khó vô cùng. Đến thời vua A Dục mới nghĩ đến việc đào tạo Tăng tài. Việc này hoàn toàn vấp phải sai lầm, thất bại dưới thời vua Lương Võ Đế, khi ông cho tù nhân làm thầy tu. Người tu là mẫu người đầy đủ tri thứcđạo đức mới khả dĩ duy trì được sự thật cao quý trên cuộc đời.

thời mạt pháp, Phật khuyên chúng ta tu hạnh cúng dường, thể hiện việc làm lợi ích cho đời là cách cúng dường tốt nhất. Chính Phật Thích Ca tiêu biểu mẫu người thực hiện hạnh cúng dường một cách trọn vẹn

Ngài kể lại tiền thân là vương tử Nguyệt Cái thấy Phật Dược Vương ảnh hưởng an lành cho xã hội. Nguyệt Cái cũng phát tâm muốn làm an vui lợi lạc cho người, giống như Phật Dược Vương

Đức Phật Dược Vương thấy Ngài thông minh, đạo đức, mới khuyên Ngài tu, sẽ đạt được lực bất tư nghì như Phật. Không tu, không thể có tuệ giác, tức nhận thức vượt ngoài khả năng của người đời.

Nguyệt Cái nỗ lực tu hành từ thời Bảo Cái Chuyển luân Thánh vương cho đến khi Ngài thành Phật Thích Ca. Quả vị mà Ngài thành tựu chính là pháp cúng dường hay hạnh cúng dường.

Đến đây, mở ra cánh cửa nhằm khuyến khích hàng Thanh văn phát triển Bồ tát hạnh, tiến đến Phật quả, hay đủ tư cách của vị xuất trần thượng sĩ, làm việc thay Phật, mới quan trọng.

Nếu chỉ đúc tượng, xây chùa, đầu tư phát triển vật chất quá nhiều; trong khi tinh thần bị hao mòn, dốt nát, chùa cũng sẽ bị tiêu hủy. Thật vậy, kinh nghiệm lịch sử cho thấy biết bao nhiêu chùa ở Trung Á bị Hồi giáo đốt sạch, giết sạch tu sĩ Phật giáo. Phật giáo tồn tại, phát triển mạnh khi đệ tử Phật đầu tư vào tri thức, đạo đức, vào việc làm lợi ích cho đời; điển hình như Phật giáo Lý Trần, thử hỏi ai tiêu diệt chúng ta được.

Ý thức sâu sắc điều này, suốt cuộc đời tôi chỉ lo học, lo xây chùa trong tâm tôi, cố gắng nâng tri thức của bản thân và của Tăng Ni Phật tử cho ngang tầm với xã hội. Có như vậy, xã hội mới chấp nhận chúng ta. Chúng ta không đi trước, thì cũng bằng thiên hạ, không đứng sau. Đó là ý nghĩa hạnh cúng dường trong ba pháp cúng dường.

Có thể nói thời chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp, đều phải có pháp tu tương ưng riêng. Tuy nhiên, điểm chung nhất đòi hỏi phải có Phật hay Bồ tát gần bằng quả vị Phật, mới có khả năng thay Phật. Nghĩa là muốn duy trì Phật pháp, không có cách nào khác hơn là chúng ta phải thành tựu tri thứcđạo đức vượt trội hơn xã hội.

Những mẫu người tiêu biểu cho hạnh cúng dường, đáng được nhắc đến như con vua A Dục. Ngài bỏ ngôi đi tu, sang truyền giáoTích Lan và làm Tổ ở đó, biên soạn tạng kinh Pali. Khi xuất gia, Ngài phát tâm thọ Bồ tát giớitu hành là việc chính, còn xây chùa chỉ là phần phụ. Hạnh của Ngài nói lên đạo Vô thượng quý hơn tất cả những gì của thế gian, nên sẵn sàng từ bỏ ham muốn ngũ dục của đời để đổi lấy giáo pháp cao thượng. Nếu không có những mẫu người này, không sao nói lên được pháp bất tư nghì giải thoát của Phật.

Ngoài ra, Thánh Đức thái tử cũng thể hiện trọn vẹn tinh thần hạnh cúng dường theo kinh Duy Ma. Ông là thái tử Nhật Bản, rất thông minh. Vào thế kỷ thứ 6, ông đã biên soạn Hiến pháp Nhật và chính ông giảng bộ kinh Duy Ma. Lòng mộ đạo và cuộc sống đạo đức của ông cũng như tài lãnh đạo khéo léo, đã thể hiện bài pháp sống động, tác dụng hữu ích cho người dân Nhật.

Việt Nam, Tuệ Trung Thượng sĩ giảng bộ kinh Duy Ma, làm Tổ sư của Thiền phái Trúc LâmĐiều ngự giác hoàng Trần Nhân Tôn cũng đã thể hiện trọn vẹn tinh thần phục vụ chúng sanhcúng dường Phật. Khi thành tựu hạnh nguyện lợi lạc quần sanh, Ngài xem địa vị danh vọng vô thường, ảo mộng, sẵn sàng từ bỏ ngai vàng như chiếc giày rách, lên núi tu hành. Các Ngài không giảng kinh suông trên lý thuyết, nhưng đã chứng minh sâu sắc giáo lý vô thượng của Phật bằng cả cuộc đời phục vụ ích nước lợi dân, vẫn không rời bản vị giải thoát.

Tóm lại, trong pháp cúng dường, quan trọng nhất là hạnh cúng dường. Nghĩa là chúng ta nắm bắt được giáo pháp của Phật truyền trao, ứng dụng vào cuộc sống và nhận được an vui giải thoát, tri kiến của chúng ta thăng hoa trên đường đạo. Và cuối cùng, chúng ta thâm nhập thế giới bất tư nghì giải thoát, thành tựu quả vị Vô thượng bồ đề. Đạt đến cứu cánh này, chư Phật mười phương đều hoan hỷ, chúng ta mới báo đáp phần nào công ơn muôn một của đức Từ phụ Thích Ca Như Lai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12079)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10777)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15358)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11259)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12120)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10629)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11648)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12779)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18028)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11184)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13070)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15328)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant