Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Iii. Một Phật Thuyết Pháp

20 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 5898)
Iii. Một Phật Thuyết Pháp

PHẬT NÓI KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT
TÂM ĐỊA PHẨM LƯỢC SỚ

Dịch giả: Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải)

Phần hai
GIẢI THÍCH KINH VĂN

III. MỘT PHẬT THUYẾT PHÁP


1. Mười nơi thuyết pháp

Lúc bấy giờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ lúc mới hiện thân thế giới Liên hoa Đài tạng, từ Đông phương đến Vương cung cõi trời này nói kinh, giáo hóa chúng trời, rồi Ngài giáng sanh cõi Diêm Phù Đề, nước Ca Tỳ La.

Mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma Da, Cha tên Bạch Tịnh, Ngài tên Tất Đạt, 7 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật, ở nơi Tịch diệt đạo tràng, ngồi tòa Hoa Quang Vương, cho đến Vương cung cõi trời Ma Hê Thủ La, trong thời gian đó, lần lượt nói pháp, cả thảy mười nơi.

Giải thích:

Trước nói về ngàn Phật, ngàn trăm ức Thích Ca nói pháp trong trăm ngàn ức thế giới, nay nói về một thế giới, một đức Phật Thích Ca giáng sanh, nói rõ quốc độ, tên họ cha mẹ, xuất gia tu đạo thành Phật, tóm tắt đại lược về việc lợi sanh.

Đông phương, nghĩa là thế giới có một mặt trời, một mặt trăng này ở phía Đông trong thế giới Hoa tạng, nên kinh Anh Lạc chép: “Trong một pháp giới, có quả báo của một cõi. “Đối với tất cả pháp hữu vi, hoặc phàm hoặc thánh, nếu thấy mà chấp đắm, hoặc pháp nhơn pháp quả, cũng không ngoài pháp giới. Chỉ có riêng Phật là người sống ngoài pháp giới, sau lại trở vào pháp giới tạng, chỉ rõ thiện, ác, tốt, xấu, vô lượng quả báo sai khác cho những chúng sanh vô minh sâu dày.

Cung Thiên Vương, là nơi tất cả Phật xuất thế. Đầu tiên Phật ở cõi trời Đâu Suất Thiên cung để giáo hóa các Thiên tử ở cõi này, xong Ngài giáng sanh xuống cõi Nam Diêm Phù Đề.

Ma Thọ hóa, nghĩa là theo các kinh điển Phật nói trời Đâu xuất không có ma, các Thiên tử cõi trời thường tu pháp môn Hỷ túc định nên không có ma ở cõi này. Vương cung cõi trời Ma Hê Thủ La ở Tứ Thiền thiên là chót đỉnh cõi sắc giớiTứ Thiền có 9 cõi trời, 5 cõi trời trên gọi là “Ngũ bất hoàn thiên” - thuộc cõi sắc giới, đây đều là chỗ ở của các vị Thánh nhơn đã chứng A Na Hàm, là quả thứ ba trong tứ quả Thanh văn Nhị thừa. Trên đỉnh cõi sắc giới có cung điện Tỳ Lô Giá Na, các vị đại Bồ Tát thường tập hợp trên đó nên không có ma. Phật ở trong cung điện Ma vương, nơi cõi trời Tha Hóa nói pháp, khiến cho ma được thọ hóa rồi, mới đến cõi trời Đâu Suất, hoặc ma tự đến cõi trời Đâu Suất thọ hóa.

Trong Tập Chú ghi: “Đâu Suất thiên còn ở trong dục giới, trong bảy cõi trời Phạm Thế, vì Phật thường ở trong đạo pháp, nên cung Ma thường bao hàm hết trong đó. Lúc Thế Tôncung trời Đâu Suất, Ngài có tên là Bồ Tát Hộ Minh.

Nước Ca Di La, Trung Hoa dịch là Xích Trạch; hay Ca Tỳ La, Trung Hoa dịch là Huỳnh Sắc, nghĩa là từ xa xưa có vị tiên tóc vàng tu đạo ở đây, nên lấy đó đặt tên. Đây thuộc địa phận Thiên TrúcThiên Trúc gồm có 12 nước, Ca Di La chính là trong địa phận Nam Thiệm Bộ Châu. TIếng Phạn Ma Ha Ma Da, Trung Hoa dịch là Đại Huyền, cũng gọi là Đại Trí Mẫu, nghĩa là Bồ Tát thành tựu Đại nguyện Trí huyễn giải thoát môn, dùng Đại Huyễn Thuật, thường làm mẹ chư Phật. Ngày 8 tháng 7 âm lịch, Hộ Minh Bồ Tát từ cung trời Đâu Suất cỡi Đại bạch tượng vương vào hông phải bà mẹ mà thụ thai. Căn trí Đại thừa thấy Bồ Tát nương lầu các chiên đàn, trụ trong thai mẹ. Phụ vương tên Duyệt Đàn Đầu, Trung Hoa dịch là Tịnh Phạn, nay gọi là Bạch Phạn – tuy hai nghĩa nhưng ý chỉ là một.

Tất Đạt, Trung Hoa dịch là Đốn Kiết, nghĩa là Phật đản sanh, ngày mồng 8 tháng 4, các điềm lành kiết tường, liền thời xuất hiện. Còn dịch là Nhứt Thiết Nghĩa Thành, đây là tên chữ của Phật khi còn tuổi nhỏ. Bảy tuổi, Ngài xuất gia. Các kinh đều nói 19 tuổi hoặc 24 tuổi, nay nói 7 tuổi hoặc 24 tuổi xuất gia. Đầu tiên Ngài đến tham vấn các vị tiên nhơn, biết chỗ sở đắc của họ là chẳng phải chánh đạo. Thật ra, ngay từ khi Bồ Tát mới 7 tuổi, ở nơi vườn ngự uyển, ngồi dưới gốc cây Diêm phù, Ngài tu đạo ly dục tịch tĩnh rồi, một năm trôi qua, vì muốn hàng phục các hàng ngoại đạo, thị hiện tu tập 6 năm khổ hạnh cộng thành 7 năm, thế nên nói 7 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo. Có kinh nói 19 tuổi, nửa đêm ngày 15 tháng 2, Ngài cưỡi ngựa Kiền trắc vượt thành xuất gia, 6 năm tu hành khổ hạnh, 5 năm đi du hóa, 30 tuổi thành đạo.

Đây tất cả đều do Như Lai tùy cơ ứng hóa, chẳng phải trí hiểu biết của phàm phu, Nhị thừa có thể lường được, hoặc là đương thời các nhà phiên dịch tạm ước định thế thôi. Người xưa thận trọng, họ không dám sửa đổi.

Thích Ca, Trung Hoa dịch là Năng Nhơn – là họ. Mâu Ni, Trung Hoa dịch là Tịch Mặc – là tên. Từ Phật xa xưa đã thọ ký cho Ngài được Thánh hiệu này, cũng nói thuở xa xưa Như Lai làm người thợ gốm cúng dường Cổ Phật Thích Ca, tự phát thệ nguyện, nguyện đồng danh hiệu như đức Phật kia.

Tịch diệt Đạo tràng, chính là dưới cội cây này thành đạo giác ngộ, tòa này là chỗ chứng Đại Tịch diệt đạo Niết Bàn, hoặc nói Tịch ngũ trụ phiền não, dứt hai thứ sanh tử (phần đoạn và biến dịch) là nơi đắc đạo.

Kinh Hoa Nghiêm chép: “Lúc bấy giờ đức Thế Tôn ngồi nơi tòa này, rõ suốt tất cả pháp rồi thành bậc tối chánh giác.” Nhưng pháp thân thì vốn không thành, vượt ra ngoài chướng ngại gọi là thành, báo thân tứ trí tròn sáng là thành, hóa thân tám tướng ngồi dưới gốc cây Bồ đề là thành. Nên nói: “Thích ứng với vật nên gọi là thành thân, tùy nghi đặt tên.”

2. Nhơn duyên khởi giáo

Khi ấy Phật quán xem mành lưới báu của các trời Đại Phạm Thiên Vương, nhân đó nói vô lượng thế giới cũng như lỗ lưới, mỗi mỗi thế giới, đều khác nhau không đồng, có vô lượng sai khác, pháp môn của Phật cũng lại như thế.

Giải thích:

Đại phạm Thiên Vương, nghĩa là ba ngàn Đại Thiên thế giới, có muôn ức Đại Phạm Thiên Vương. Đại ở đây, chẳng phải Đại Phạm Thiên Vương trong cõi trời sơ thiền, mà là Đại Tự Tại Phạm vươngcõi trời Tứ Thiền.

Xét trong phẩm trước, thì có vô lượng Đại Phạm Thiên Vương. Đây tổng nêu các trời Phạm Vương trong thế giới đến nhóm họp nhiều như vi trần.

Mành lưới báu, nghĩa là nhiều muôn mặt lưới, lớp lớp trùng trùng, vô lượng sai khác, mà ánh sáng hạt châu chiếu rọi vào nhau, không ngăn ngại nhau. Chư Phật tùy cơ thuyết giáo, cũng đều sai khác vô lượng, nhưng không hề bị ngăn ngại.

3. Giáng sanh không phải một

Nay Ta đã đến thế giới Ta Bà này tám ngàn lần, ngồi trên tòa Kim cang Hoa quang, cho đến Vương cung cõi trời Ma Hê Thủ La, vì tất cả đại chúng trong đây nói sơ lược Tâm địa pháp môn.

Giải thích:

Pháp thân Như Lai, nghĩa là thể của pháp thân vắng lặng như hư không , vốn đã lìa tướng năng và sở, động tịnh, sanh diệt, qua lại. Nên kinh Đại Bát Niết Bàn chép: “Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”, nghĩa là pháp thân Như Lai không từ đâu đến và cũng không đi về đâu. Nay nói tám ngàn lần, chính là đại dụng của Như Lai, dùng Bi trí lợi sanh mà thôi.

Kinh Hoa Nghiêm chép rằng: “Như Lai vốn không có thân, vì chúng sanh nên Ngài thị hiện thân kia.” Pháp thân thì vô sanh mà không chỗ nào là không có, có tất cả tướng. Pháp thânHóa thân không có dị thể, do cơ cảm của chúng sanh, thì thấy Phật cũng xuất thế , khi duyên hết thì thấy Phật nhập diệt. Như áng mây che mặt trời, kẻ ngu muội liền cho Phật diệt độ. Khi mây tan mặt trời hiện, lại bảo rằng Phật xuất hiệnChúng sanh cũng vậy, nghiếp chướng nặng không thấy được mặt trời trí tuệ, nghiệp nhẹ thấy được Phật xuất hiện nơi đời, chỉ do cơ cảm của chúng sanh chứ Phật không hề có đến đi. Xuất thế hay diệt độ đều vì lợi ích chúng sanh mà thôi. Nên Kinh Niết Bàn chép: “Chư Phật Như Lai vì muốn khiến cho chúng sanh sanh tâm ham mộ, nên xuất hiện nơi đời, muốn khiến cho chúng sanh sanh tâm ngưỡng mộ và luyến tiếc, nên thị hiện nhập Niết bàn.” Theo các kinh khác, trăm ngàn chỉ là số lớn của tục ngữ mà thôi. Như kinh Niết Bàn chép: “Ta tuy ở cõi Diêm Phù Đề, thường thường thị hiện nhập Niết bàn, nhưng thật ra ta đâu thực nhập Niết bàn.” Như Lai tánh thực ra không diệt, thế nên phải biết đây là pháp thường trụ, pháp không thay đổi. Đại Niết Bàn tức là pháp giới của Phật Như LaiChúng sanh cho rằng Ta mới thành Phật, nhưng thật ra trong vô lượng kiếp việc làm đã xong vì tùy thuận pháp thế gian, nên Ta thị hiện ở cõi Diêm Phù Đề, xuất gia cho đến thành đạo.”

Kinh Pháp Hoa chép: “Thực ra Ta đã thành Phật từ vô lượng, vô biên, vô số kiếp đến nay. Trăm ngàn muôn ức Na Do Tha kiếp, Ta thường ở cõi Ta Bà này, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh khắp mọi nơi, cả trăm ngàn Na Do Tha A Tăng Kỳ, cõi nước, dẫn dắt chúng sanh, thọ mạng của Ta cũng vô lượng A Tăng Kỳ kiếp thường trụ bất diệt, chẳng phải thực diệt độ, nhưng Ta nói: Sẽ diệt độ” đó là Như Lai dùng phương tiện để giáo hóa chúng sanh.

Hỏi: Như Lai đã thành Phật từ lâu xa, sao không tự hiện thân thuyết pháp mà lại giáng sanh vào Vương cung Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Da để xuất gia tu đạo?

Đáp: Nếu không làm vậy, kẻ phàm phu vô trí sẽ nghi Phật là hóa nhơn, hoặc cho rằng người không có cha mẹ, vợ con, tông tộc, mới có thể đắc đạo; còn phàm phu làm sao đắc đạo, nên không chịu tu tập noi theo, đây chính là diệu dụngNhư Lai thị hiện, phương tiện độ sanh.

Ta Bà, Trung Hoa dịch là Năng Nhẫn, cũng gọi là Kham Nhẫn, nghĩa là chúng sanhthế giới này hay kham nhẫn, chấp nhận chịu khổ tam độc (tham, sân, si) và các khổ phiền não mà không sanh tâm nhàm lìa để cầu giải thoát.

Cho đến, nghĩa là mười nơi thuyết pháp này, trước là tòa kim cang, sau cùng là cung Thiên vương, ngoài ra còn 8 nơi khác ở hết trong đó.

Trước nói Thiên Quang Vương tòa, nay nói Hoa Quang Vương tòa, vì từ ngàn Phật cũng đều xuất phát từ Hoa Quang tam muội mà ngồi tòa này. Đại địa chấn động, mà tòa này nghiễm nhiên bất biến, chính là tiêu biểu thực tướng Tâm địa giới thể, cũng như chất kim cang, hay phá trừ được tất cả phiền não mà không bị phiền não làm dao động.

Vì tất cả đại chúng trong đây, nghĩa là đại chúng thập trụ xứ, lược nói trăm ngàn hằng hà sa pháp môn trong tâm địa, như chừng đầu sợi lông rồi sau mới vì hàng địa thượng phàm phu mà nói, văn sau sẽ nêu rõ.

4. Nói giới cho phàm phu

Phật từ cung Thiên Vương, cho đến Nam Diêm Phù Đề, dưới cội Bồ Đề, vì tất cả chúng sanh , kẻ phàm phu si ám, nói Tâm địa Phật Lô Xá Na. Người sơ phát tâm nên đọc tụng Kim cang Quang minh Bảo giới này, là bổn nguyên của tất cả Phật, tất cả Bồ Tát, là Phật tánh chủng tử của tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả ý thức, sắc tâm là tình, là tâm đều ở trong Phật tánh giới, thường có chánh nhân, thường có pháp thân thường trú.

Giải thích:

Trước vì Đại chúng Bồ Tát mà nói, nay vì hàng phàm phu trước quả vị Thập địa mà nói. Si là không biết chánh pháp, vọng sanh tà kiến, Ám là vô minh phiền não, che lấp tâm địa.

Như Lailòng từ bi thương xót hạng người này nên tám ngàn lần qua lại cõi Ta Bà để truyền nói chánh giới của Phật Lô Xá Na. Ba đời Chư Phật đều thọ chánh giới này trước để làm chánh nhơn thành Phật, nên nói trong khi mới phát tâm thường nên đọc tụng giới này.

Giới chính là Kim cang Quang Minh Bảo Giới, là 10 giới trọng, 48 giới khinh. Quang minh nghĩa là ánh sáng của giới này hay phá trừ nhà si ám, vô thỉ vô minh.

Báu của Kim cang, nghĩa là thể chất của giới này chắc như kim cang hay phá hoại tất cả mọi vật mà không bị các vật phá hoại nó, dụ đây là chánh giới, hay xô dẹp được tất cả phiền não, núi kiêu mãn tà kiến, lại hay phát sanh vô lượng pháp tài công đức, nên gọi là báu. Tất cả chư Phật Bồ Tát đều lấy giới này làm hột giống Phật tánh bổn nguyên.

Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nghĩa là ở Thánh, tánh này không thêm và ở phàm, tánh này cũng không giảm. Nên Kinh chép: “Tất cả chúng sanh xưa nay đã thành Phật, chỉ vì một niệm bất giác ban đầu rồi khởi lên vô minh vọng động, thành ra tối tăm si ám, tự mình làm chướng, nên Phật khiến cho thọ chánh giới này để khai thông. Chướng kia đã trừ thì Phật tánh tự hiện.”

Ý thức sắc tâm, nghĩa là một thể nhứt chơn pháp giới, do không giữ được thể chơn như, nên mới có tên là Tâm, Ý, Thức. Tên gọi tuy có ba, mà thể của nó vốn không hai

Ý thức, chính là tên khác của tâm, nghĩa là phàm phu vọng động bỗng nhiên tập khởi gọi là Tâm, tiếp theo tâm suy lường gọi là Ý, sau sanh niệm phân biệt gọi là Thức.

Sắc là sắc chất, chính là sắc thân tứ đại.

Tình và tâm này đều thể nhập trong Phật tánh giới, nghĩa là Tình, là tên khác của ý thức, chính là phát minh thấy rõ tất cả sắc tâm của chúng sanh đều có Phật tánh, ngoài tâm này ra không có Phật tánh nào nữa cả. Các pháp cũng như thế, chỉ có một thể, nên nói A Lại Da Thức, chính là Như Lai tàng là thế.

Đương đương, nghĩa là hành giả lãnh thọ giới này, tu hành như pháp, đó là chánh nhân quyết định thành Phật, có chánh nhơn này rồi, quyết định hằng trụ cực quả thanh tịnh pháp thân.

Ví như vàng đã ra khỏi quặng không bao giờ trở lại quặng nữa, nên nói là Thường.

Trong Kinh Tâm Địa Quán có bài kệ rằng:

Chúng sanh vốn có Bồ Đề chủng
Đều nằm trong thức A Lại Da
Nếu gặp bạn tốt phát đại tâm
Dùi mài ba chủng tu diệu hạnh
Dứt sạch phiền não sở tri chướng
Chứng đắc Như Lai thường trụ thân.

Mười Ba-la-đề-mộc-xoa này xuất hiện nơi đời. Giới pháp này tất cả chúng sanh trong ba đời đều lãnh thọ phụng trì.

Giải thích:

Ba-la-đề-mộc-xoa ,Trung Hoa dịch là Bảo giải thoát, nghĩa là hay giữ gìn chúng sanh khiến cho họ chắc chắn được giải thoát khỏi vô minh phiền não, mà chứng đắc pháp thân thanh tịnh.

Mười giới, tức là 10 giới trọng, ở nhơn năng trì gọi là Ba-la-di, ở quả sở đắc gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa. Nay trước nêu giới trọng, là tổng nhiếp cả giới khinh.

Xuất hiện ở đời, nghĩa là tâm địa giới pháp này ở đời khó gặp, Như Lai xuất thế nay mới nêu ra. Giới pháp này chẳng phải giới pháp của Nhị thừa mà chính là đại giới tâm địa của chánh nhân thành Phật, nên phải đê đầu lãnh thọ, tôn trọng giữ gìn, không được quên lãng dù trong phút chốc

Nay ta vì đại chúng này, nói lại phẩm Vô tận Tạng giới, là tất cả giới của chúng sanh, là bổn nguyên tự tánh thanh tịnh.

Giải thích:

Nói lại, nghĩa là trước nói rồi, sau nói lại, hoặc vì chúng trời, người, Bồ Tát, nay vì hàng phàm phu, nên nói là Trùng thuyết.

Phẩm Vô Tận Tạng giới, nghĩa là giới phẩm này, tuy nói rằng mười giớithực ra đã bao la không cùng tậnGiới pháp của Bồ Tát, đầy đủ vô lượng pháp môn. Giới là bổn nguyên tự tánh thanh tịnh của tất cả chúng sanh, nghĩa là giới pháp này, trước ngàn Phật đã truyền nói, sau là giúp khắp cho tất cả căn cơ, tăng tục, trời người, đều vâng lãnh thọ trì, tất cả quỷ thần súc sanh đều lãnh thọ được, vì chúng sanh và Phật cùng bản tánh thanh tịnh. Chư Phật đã trở về nguồn tánh này, còn ở chúng sanh thì cần phải có giới mới có thể trở về cội nguồn. Tánh của cội nguồn vốn thanh tịnh, chẳng phải ngoài cội nguồn mà có tánh nào khác, mà cũng chẳng có thanh tịnh nào khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27173)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21765)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22226)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20429)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24741)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18984)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24738)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30971)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23982)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27761)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26507)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21302)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23219)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38122)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18433)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19951)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19039)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23145)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22788)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29564)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19652)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20149)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18113)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22926)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34163)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16413)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39242)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26058)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18847)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24054)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29116)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30946)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26254)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23319)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19816)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30026)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20219)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15828)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23874)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant