KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.45. BẤT GIÁO HÓA CHÚNG SANH GIỚI
(giới không giáo
hóa chúng sanh)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử thường khởi Đại Bi tâm...” cho đến câu “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật
tử nên có lòng đại bi, khi vào trong tất cả nhà cửa, thành ấp:
- Nếu gặp loài
súc sanh, phải xướng lên rằng: Các ngươi đều nên thọ Tam Quy và Thập
Giới.
- Nếu gặp trâu
bò, chó, ngựa, dê, heo v.v... nên tâm nghĩ, miệng nói: Các ngươi là súc sanh
nên phát Bồ Đề tâm.
- Khi Phật tử
đến núi rừng, đồng nội, tất cả các nơi, đều nên làm cho cả thảy chúng sanh phát
Bồ Đề tâm.
Nếu Phật tử
không phát tâm giáo hóa chúng sanh thời phạm khinh cấu tội.
Lời giảng
Nếu nói về
hạnh “thượng cầu Phật đạo” thì phải luôn có tâm tôn trọng Tam Bảo, còn nói về
hạnh “hạ hóa chúng sanh” thì quyết không được không tích cực hóa độ chúng
sanh.
Bồ Đề sở dĩ mệnh
danh là Bồ Tát do chính phát đại Bồ Đề tâm. Vì Đại Bồ Đề tâm là động lực độ
sanh và thành Phật. Nếu không phát Bồ Đề tâm thì không thể phổ độ tất cả chúng
sanh và không thể viên thành vô thượng Phật quả.
Bồ Tát nếu không
hóa độ chúng sanh tức là trái ngược với Bồ Đề tâm đã phát. Chẳng những chính
mình phát tâm Bồ Tát hóa độ chúng sanh, lại còn phải giáo hóa tất cả chúng sanh
đều phát tâm Bồ Đề. Nên kinh Pháp Hoa nói:
Nhược dĩ Tiểu
Thừa hóa,
Ngã tắc đọa xan
tham,
Thử sự vi bất
khả.
Dịch:
Nếu đem Tiểu
Thừa độ,
Ta có lỗi xan
lẫn pháp,
Việc này không
thể được.
Đức Phật ra đời
hóa độ chúng sanh đều không dùng pháp Tiểu Thừa để giáo hóa dẫn dắt. Vì thế,
người Phật tử phải thực hành theo tinh thần cao siêu của Đức Phật. Tức là phải
dùng pháp Đại Thừa hóa độ chúng sanh, tuyệt đối không được đem pháp Tiểu Thừa
mà giáo hóa. Có thực hành được hạnh “thượng cầu, hạ hóa” mới được gọi là Bồ
Tát. Nếu đi ngược lại với tinh thần trên, thì Danh và Thật trái nhau. Danh và
Thật đã trái, thì còn tư cách gì gọi là đại sĩ?
Việc “thuyết
pháp giáo hóa chúng sanh” thực hết sức quan trọng. Vì chúng sanh dù có sẵn Phật
tánh, nhưng nếu không đem ngôn âm thánh giáo mà hóa độ, thì chúng sanh không
thể thành Phật. Vì thế, Bồ Tát cần phải thuyết pháp giáo hóa chúng sanh.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, phải thường sanh khởi tâm
Đại Bi”. Vì nếu không khởi tâm Đại Bi, thì không nương vào đâu để hóa độ chúng
sanh. Làm một vị Bồ Tát, nhất quyết phải lấy tâm hóa độ chúng sanh làm bản
hoài. Vì chúng sanh bị bao nhiêu thống khổ buộc ràng, nên mới cần phải nhờ Bồ
Tát hóa độ. Vì ý niệm bạt trừ thống khổ cho chúng sanh rất thiết tha, nên Bồ
Tát phải sanh khởi tâm Đại Bi và phải khởi tâm liên tục, không được gián đoạn,
dù chỉ trong giây lát, nên trong kinh văn Phật dạy là “thường”. Bồ Tát cần phải
ban vui cho tất cả chúng sanh.
Tại sao ở đây
chỉ nói thường khởi Đại Bi mà không nói là Đại Từ?
Nên biết ban vui
không bằng cứu khổ, vì cứu khổ là việc rất khẩn thiết. Hơn nữa, khi khổ quả đã
bị bạt trừ rồi, thì tâm tự nhiên được an vui, nên không nói “thường khởi đại
từ”.
Bồ Tát vì muốn
bạt khổ cho chúng sanh mà du hành giáo hóa trong nhân gian. Khi vào trong tất
cả nhà cửa, thành ấp, thấy tất cả chúng sanh phải xướng lên rằng: “Các người
đều nên thọ Tam Quy và Thập Giới”. Kinh văn trên đây nói “chúng sanh” là bao
hàm tất cả chúng sanh trong lục đạo. Vì Bồ Tát chưa chứng được thiên nhãn
thông, nên đối với chúng sanh trong hai ác đạo: ngạ quỷ và địa ngục cũng như
chư thiên, a tu la, mắt thường không dễ gì thấy được, mà chỉ thấy được chúng
sanh ở nhân đạo và hàng súc sanh mà thôi.
Hiện tại ở đây,
trước tiên muốn độ cho chúng sanh nhân đạo phát Bồ Đề tâm và vì những người có
giai cấp tôn, ty, quý tiện khác nhau, cho nên dùng chữ “tất cả” để chỉ.
“Nên xướng lên
rằng” là lời kêu gọi sự thức tỉnh. Vì trong bát phước điền của chúng sanh xưa
nay đã sẵn có giới Phật tánh, nhưng vì quý vị từ vô thỉ đến ngày nay đi ngược
lại giác tánh mà hiệp với trần lao, bị lục trần che đậy cho nên không được bẩm
thọ đại giới này mà bước lên quả vị tối cao vô thượng Bồ Đề. Nay tôi vì quý vị
lược thức tỉnh tất cả một phen. Quý vị phải tự giác ngộ lấy giới Phật tánh này,
xưa nay đã sẵn có nơi mình. Chỉ cần quý vị thuận theo giác tánh, tức đã đắc
giới, không phải là việc khó khăn... Miệng xướng khuyên bảo thọ Tam Quy, Thập
Giới, dù không quyết định mọi người đều được bẩm thọ. Vì Tam Quy, Thập Giới mọi
người đều tự sẵn có, không phải do tìm cầu bên ngoài mà được, và chỉ có quy
giới này là pháp chân thật, ngoài ra có thể nói toàn là hư vọng mà thôi.
Kinh Anh Lạc
dạy: “Vị Pháp Sư trước tiên phải vì người phát tâm thọ giới giảng nói khiến cho
họ sanh tâm ưa thích, rồi sau đó mới truyền trao quy giới”.
Thế nên, điều
tối yếu là vị giới sư phải vì người phát tâm thọ giới, giảng rõ ý nghĩa của Tam
Quy: quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Tam Bảo là phước điền chân thật quý báu
của thế gian, nên chúng sanh nào có tâm thành kính quy y thì được Tam Bảo cứu
hộ và được tăng trưởng phước đức.
Nên trong kinh
Chiết Phục La Hán nói: “Vị thiên tử cõi trời Đao Lợi lúc sắp mạng chung, dùng
thiên nhãn quán sát thấy mình sau khi xả báo thân bị đọa làm heo. Thiên tử đau
khổ vô cùng, bèn suy nghĩ: ‘Trên cõi trời, dưới thế gian, không ai có thể cứu
khổ chúng sanh ngoại trừ Đức Phật’. Nghĩ như vậy, liền đến quỳ dưới chân Phật
cầu cứu hộ. Đức Phật dạy rằng: “Con hãy thành tâm quy mạng Tam Bảo Phật,
Pháp,Tăng. Thiên tử vâng lời Phật, trong bảy ngày đêm tinh cần quy y Tam Bảo,
nhờ phước đức ấy được thoát khỏi thai heo, sanh làm con nhà trưởng
giả...”
Theo trên chúng
ta thấy Tam Bảo là chỗ quy y của tất cả chúng sanh, là chiếc bảo thuyền cứu vớt
tất cả chúng sanh trong bể khổ. Tam Bảo là đại từ phụ của chúng sanh, có thể
cứu độ tất cả chúng sanh, không bị đọa lạc vào cảnh đau khổ, ra khỏi biển khổ
sanh tử luân hồi, đến bờ giác Vô Thượng Bồ Đề. Thế nên bất cứ chúng sanh nào
cũng đều cần phải quy y Tam Bảo, để cầu thoát ly sanh tử.
“Mười giới” ở
đây nói không phải là mười giới Sa Di thông thường mà là mười giới vô tận Ba La
Đề Mộc Xoa của Bồ Tát giới. Bồ Tát vì tất cả chúng sanh xướng lên rằng: “Quý vị
ai cũng sẵn đủ giới Phật tánh, nhưng vì từ vô thỉ đến giờ mù mờ quên mất, mà
luống phải chịu khổ sanh tử luân hồi. Nay tôi muốn quý vị bẩm thọ mười giới
này, vì mười giới này là cơ bản của Bồ Tát, cũng là chánh nhân thành Phật. Hôm
nay, quý vị muốn thú hướng đến quả vô thượng, trước tiên phải phát Bồ Đề tâm,
thọ mười giới này...”
Trong kinh nói:
“Nghe danh tự của Tam Bảo sẽ không bị đọa vào ác đạo”. Như thế thì quy y Tam
Bảo công đức càng thù thắng hơn.
Không thọ giới
pháp quy y thì không biết tự tánh Tam Bảo. Không thọ mười giới thì không biết
tự tánh giải thoát. Vì thế vấn đề quy y và thọ giới đối với chúng sanh trọng
yếu vô cùng!
Bồ Tát du hành
giáo hóa trong nhân gian, ngoài việc xướng và khuyên chúng sanh trong nhân đạo
thọ Tam Quy và thập giới, ngay đến lúc gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê v.v...
cũng phải tâm nghĩ, miệng nói như vầy: “Hiện tại các người dù là súc sanh nhưng
cũng có sẵn đủ tánh linh tri giác, chính là tâm bản giác của giới tánh. Vì mê
muội nên bản giác chơn tâm này trở thành vọng tâm phân biệt. Nay chỉ cần bỏ
vọng thì tức khắc trở về chân”.
Vì thế, Bồ Tát
cần phải đặc biệt giáo hóa tất cả chúng sanh phát tâm Bồ Đề. Bồ Đề tâm chính là
giác tâm. Giác tâm một khi đã phát thì vô minh, vọng niệm tức khắc tiêu tan. Do
đó mà các ngươi có thể vĩnh viễn xa lìa khổ báo súc sanh. Làm như vậy thật có
lợi ích rất lớn cho chúng sanh.
Có người hỏi
rằng:
- Súc sanh vốn
không hiểu tiếng nói của người, cũng không thể phát Bồ Đề tâm, tại sao ở đây
lại dạy nói như vậy thì có lợi ích gì?
Đáp: - Sự thật
thì đúng như vậy. Đó là chứng tỏ bi tâm của Bồ Tát bình đẳng và vì muốn làm
viễn nhân cho nhiều kiếp ở tương lai của tất cả chúng sanh nên đặc biệt nói như
vậy. Hơn nữa, có những loại như loài rồng v.v... trong thời kỳ thuộc kiếp sơ
khai, được gần gũi với nhân thiên nên có thể hiểu tiếng người (Kiếp sơ là tiểu
kiếp tối sơ khai, khi thế giới mới thành lập). Thế giới có bốn thời kỳ: Thành,
Trụ, Hoại, Không. Mỗi thời kỳ dài 20 tiểu kiếp, sau khi 20 tiểu kiếp hoại đã
mãn, thế giới mới thành lập, gọi là Kiếp Sơ.
Lại nữa, súc
sanh nghe kinh pháp được lợi ích có thể nói là rất nhiều. Như vào thời quá khứ,
có một vị tỳ kheo ở trong khu rừng lớn ngày đêm thường tụng kinh, âm thanh thật
hòa nhã thật hiếm có.
Một hôm, có một
con chim đậu trên cây đại thụ nghe tiếng tụng kinh, sanh tâm kính ngưỡng tột độ.
Lúc nó đang chuyên chú kiền thành nghe thầy tụng kinh, không để ý đến mọi việc
xung quanh, thì một người thợ săn chực sẵn dưới gốc cây, giương cung bắn chết
chim.
Sau khi chết,
chim liền được sanh lên cung trời Đao Lợi.
Thiên nhân quán
sát thấy tiền thân của mình là một con chim, do nhờ thiện căn nghe kinh pháp mà
được sanh lên cõi trời. Thiên nhân bèn mang hoa hương thiên giới đến chỗ thầy
tỳ kheo tụng kinh cung kính cúng dường, lễ bái. Thầy tỳ kheo cảm động trước sự
thành tâm của thiên nhân nên lược giảng pháp yếu, thiên nhân liền chứng quả Tu
Đà Hoàn.
Lại nữa, khi
Phật còn tại thế, một hôm Ngài ngự trong đầm, gần khu rừng nước Ba La Nại, vì
các thiên nhân thuyết pháp.
Lúc ấy, trên hư
không có đàn nhạn năm trăm con đang bay ngang, nghe âm thanh thuyết pháp của
Phật du dương, thanh tao, thân tâm vô cùng kính mộ. Đàn nhạn liền đáp xuống chỗ
Phật đang thuyết pháp.
Ngay lúc ấy, có
một thợ săn trông thấy liền bủa lưới và đàn nhạn vô ý sa vào lưới bị bắt giết.
Sau khi xả thân, chúng đều được sanh cõi trời Đao Lợi. Năm trăm thiên nhân liền
đem hoa hương thiên giới cúng dường Đức Phật. Phật vì các thiên nhân thuyết
pháp, tất cả đều chứng Tu Đà Hoàn.
Bồ Tát khi du
hành trong nhân gian giáo hóa cũng có lúc đi đến núi rừng, đồng nội, tất cả
những chỗ đi qua đều nên làm cho tất cả chúng sanh phát Bồ Đề tâm. Đoạn kinh
văn cuối cùng này nói Bồ Tát đến nơi nào, thấy chúng sanh, bất cứ người hay súc
vật, thậm chí quỷ thần vô hình, đều để tâm giáo hóa và khuyên bảo họ phát Đại
Bồ Đề tâm, khiến cho tất cả tương lai đều thành Phật đạo.
Phương tiện giáo
hóa chúng sanh như vậy, chẳng những thể hiện bi tâm của Bồ Tát thật thâm thiết,
lại còn thấy rõ sự hóa độ chúng sanh của Bồ Tát rất rộng lớn. Bản hoài của đại
sĩ lấy việc lợi sanh làm chủ yếu nên cần phải thực hành như vậy. Vị Bồ Tát nếu
không phát tâm giáo hóa chúng sanh thì phạm khinh cấu tội.
Giới này thuộc
về giá tội, thất chúng Phật tử đồng tuân giữ và đồng học tập. Còn Đại Thừa và
Tiểu Thừa có sự phân định khác nhau:
- Vì hành giả
Thanh Văn lấy việc tự độ làm mục đích, không xem sự lợi tế là bản hoài nên
không đi giáo hóa chúng sanh thì không trái phạm giới luật.
- Riêng hành giả
Đại Thừa nếu không phát tâm giáo hóa chúng sanh thì trái phạm. Nhưng trong
những trường hợp bản thân lúc đang bệnh hoạn, hoặc tự mình không hiểu biết,
không có khả năng, hoặc nhận thấy chúng sanh khó hóa độ... Vì những lý do đó
nên không hóa độ chúng sanh cũng không vi phạm.
Nếu đem Tam Tụ
Tịnh Giới phối hợp với giới này thì có sự tương ứng như sau:
- Khuyến hóa
chúng sanh thọ Tam Quy thập giới là Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Khởi tâm đại
bi là Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Giáo hóa chúng
sanh là Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Với một giới
này, cả Tam Tụ Tịnh Giới đều thâu nhiếp trong đó, cho nên làm một vị Bồ Tát
phải thường khởi tâm Đại Bi giáo hóa, phổ độ tất cả chúng sanh khiến tất cả đều
phát Bồ Đề tâm.