Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Duyên Khởi

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6465)
Duyên Khởi

KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
Trọn bộ mười quyển
Đời Tống nước Kế Tân
Tam Tạng Pháp sư Cầu Na Bạt Ma Dịch Phạn văn sang Hán văn
Tỳ kheo Thích Thiện Thông Dịch ra Việt văn

Duyên Khởi

 Mùa An cư năm 1981 tại già lam Quảng Hương, lúc đó hòa thượng Thích Trí Thủ còn sinh thời, tôi xin nhập hạ tại đó, trong lúc lên thư viện mượn một ít kinh luận để đọc, tôi bỗng bắt gặp một tập sách lẻ loi rất dày và đẹp, cạnh mạ vàng óng ánh, thật là loại kinh sách quý. Mở ra xem thì đó là 1 tập thuộc Tân Tu Đại Chánh Tạng, dày 1,000 trang, trong đó chứa đựng nội dung các bộ kinh Bồ tát Thiện Giới, Du Già Sư Địa Luận và một vài bộ kinh nào nữa mà nay tôi không còn nhớ rõ. Mới đọc qua vài trang đầu, tôi không sao hiểu nổi ý nghĩa, vì trình độ Hán văn quá ít ỏi, nói đến dịch thuật, thật là chuyện mơ hồ.

Hai năm sau tôi nhận một ngôi chùa ở vùng Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai. Một dịp nọ ra Long Khánh, đến chùa Bảo Sơn của thầy Huệ Tâm, trong lúc chuyện trò, bớt chợt nhìn vào tủ kinh sách, thấy một tập kinh in trên giấy thật trắng, tôi xin phép mượn xem thử tại chỗ, lại thấy đó là một tập trong đại tạng Tần Già, ngoài bìa đề “Đại Thừa Luật” bên trong gồm 20 quyển; Bồ tát Thiện Giới 10 quyển, Phạm Võng 2 quyển, Anh Lạc Bổn Nghiệp 2 quyển, Văn Thù Sư Lợi Vấn Phật 2 quyển, Thập Thiện 1 quyển, Thọ Thập Thiện Giới 1 quyển, Bồ Tát Nội Giới 2 quyển. Bỗng tôi nghĩ: Có một cái gì lạ lùng khiến tôi hai lần gặp được Bộ Bồ Tát Thiện Giới như vầy? Đây không phải là chuyện ngẫu nhiên may rủi, chắc chắnnguyên nhân gì với giáo pháp, nên mới khiến tôi bắt gặp bộ kinh quý báu này. Thế là tôi mượn tập kinh ấy đem về nghiên cứu, và thầy Huệ Tâm bằng lòng cho mượn. Sau khi đem về, mở kinh Bồ Tát Thiện Giới ra đọc tới đọc lui, độ 5, 7 tờ thấy sao mà bao la sâu thẳm quá, mình chữ nghĩa chỉ lõm bõm sơ sài, biết có kham nổi không đây? Tuy vậy, tôi quyết chí cố gắng diễn dịch, hy vọng có thể vượt qua những khó khăn.

Mùa An cư 1984 tôi bắt đầu hạ bút, trước hết là dịch mấy bộ kinh ngắn, như kinh Thập Thiện (bản đời Tống), kinh Văn Thù Vấn Phật…Qua mùa hạ 1985 tôi khởi sự dịch bộ này, mỗi ngày dành 3 giờ để làm việc, sau mùa An cư năm đó tôi dịch được 5 quyển và 5 quyển sau tôi hoàn tất trong cuối năm 1985, tôi so sánh sửa chữa, chép đi chép lại đến 3 lần. Qua năm 1986, nhân lúc gặp TT. Đức Chơn, tôi đưa bản thảo nhờ góp ý, trong lúc nhập thất TT. Đức Chơn viết thư ra, phát biểu rằng: “Tôi đã đọc xong bộ kinh của thầy dịch, thật là một bộ mới lạ hiếm có. Thì ra trong Tạng còn nhiều bộ kinh lớn như thế này mà ít người chịu dịch đến, phần nhiều người ta dịch những bản đã có người dịch trước, tôi rất tùy hỷ việc làm của thầy, sau khi ra thất tôi sẽ cho người đánh máy giúp, và tôi sẽ bồi dưỡng tiền công cho họ”. Thượng Tọa Đức Chơn đã thực hiện lời hứa ấy và trao cho tôi 3 bản đánh máy.

Năm 1990, lúc đến Phật học viện Huệ Nghiêm, gặp thầy Toàn Châu đang dịch mấy quyển Phật Tâm Tông, thầy cho biết HT. Từ Đàm mới vô già lam Quảng Hương, thầy đề nghị tôi nên nhờ Hòa thượng giảo chánh lại, tôi đồng ý, chúng tôi hẹn ngày đến gặp Ôn Từ Đàm. Sáng mùng 2/8 thầy Toàn Châu và tôi được Hoà thượng tiếp chuyện, qua lời giới thiệu của TT. Toàn Châu, Hòa thượng đồng ý duyệt lại bản thảo, HT hỏi có đem bản chính theo không? Tôi trao tạng bản, thì Hòa thượng nói:

- Nhân duyên nào thầy có tạng bản này?

- Kính bạch Hòa thượng. Con mượn ở chùa Bảo Sơn huyện Long Khánh.

- Tôi nhớ tại Linh Quang (Huế) có tạng Tần Già này, vì sao lại rơi rớt ở đó kìa?

- Thưa Hòa thượng con cũng không rõ. Có lẽ vị nào đó từ Huế đem vào, rồi bỏ quên lại đó chăng? Vậy nếu cần, sau khi duyệt xong, Hoà thượng đem về đó thì hay quá, như vậy khỏi bị thất lạc.

Nghe tôi nói vậy, Hòa thượng Từ Đàm gật đầuHòa thượng yêu cầu tôi đọc bản Việt, còn ngài cầm bản chữ Hán để theo dõi. Sáng hôm đó HT không được khỏe, vì vừa qua một cơn bệnh nhẹ, tuy vậy HT vẫn nằm trên võng nghe tôi đọc phần Việt dịch, đến chỗ nào hơi nghi ngờ, HT yêu cầu tôi giải thích về những từ ngữ mà tôi xử dụng, sau khi tôi trình bày, HT chấp nhận. Đọc đến hết quyển 4, HT bảo “Hãy thôi, không cần phải đọc nữa. Qua 4 quyển vừa rồi tôi xét thấy mức độ chính xác 98/100, bản này thầy dịch theo lối văn mới, được lắm đó” Hòa thượng dạy những lời trên trước sự hiện diện của TT Đức Chơn và thầy Toàn Châu. Tôi ngỏ ý thỉnh Hòa thượng viết cho lời tựa, nhưng Hòa thượng nói:

- Thầy cứ viết đi, rồi tôi giới thiệu cho.

Sau khi được sự khích lệ tinh thần của bậc tôn túc khả kính, tôi lần hồi dịch tiếp bộ Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp (vì đã có bản chép tay), từ dạo đó đến nay, trước sau đã 10 năm, phần thì thiếu thốn tài chánh, phần thì bận tới lui giảng dạy ở một số trường Phật học, tôi vẫn giữ nguyên bản thảo, chưa có dịp lưu thông, nay xét giới tu sĩ trẻ càng ngày càng đông, nền giáo dục Phật pháp càng được mở rộng, tôi dành dụm chút đỉnh tài chánh làm lại bản thảo này để ra mắt học giới, mong đóng góp phần nhỏ trong việc phổ biến giáo pháp hiện tại và tương lai.

Nay tôi ghi lại những lời này trước là kính gởi lên Hòa thượng Từ Đàm sự tri ân sâu đậm vì ngài đã không quản ngại tuổi cao sức yếu, duyệt qua bản thảo và khích lệ tinh thần trong việc dịch thuật này. Tôi cũng xin cảm tạ sự sốt sắng hỗ trợ của TT Đức Chơn trong thời gian trước đây. Thành thật tán thán sự đóng góp tịnh tài của chư thượng tọa và các Phật tử phát tâm, để bộ kinh Bồ Tát Thiện Giới được lưu thông mặc dầu trong phạm vi giới hạn nội bộ.

NamCông Đức Lâm Bồ Tát Mahatát.

Dịch giả cẩn chí.

Thích Thiện Thông
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49749)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34630)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33449)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43927)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57074)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47564)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39418)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38478)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52935)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36598)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32240)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40473)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43486)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31452)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46712)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36210)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28695)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29241)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31890)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28830)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33364)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29137)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60976)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39772)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26675)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29666)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37377)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40088)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26838)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42657)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37285)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28286)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28896)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26394)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27172)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26184)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34645)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27803)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30474)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33284)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28568)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30079)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25493)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21844)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51302)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26727)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28627)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27705)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24359)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27461)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31930)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30185)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27702)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35443)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27442)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30013)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31773)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23026)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24179)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23022)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant