Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1 Huấn Luyện Xuất Gia

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7457)
Chương 1  Huấn Luyện Xuất Gia

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 1 
Huấn Luyện Xuất Gia 

Đức Phật chế Cận Trụ Luật Nghi, mục đích để cho người tại gia có được phương pháp tu học xuất gia tạm thời. Như trong Kinh Thập Thiện Giới dạy: “Bát Trai Giới là do chư Phật quá khứ, hiện tại vì hàng tại gia chế pháp xuất gia”. Do đó, ta thấy rõ rằng: Chẳng riêng Đức Thích Ca chỉ bày pháp xuất gia Bát Trai Giới này cho hàng tại gia, mà chư Phật quá khứ cũng đều chỉ dạy như vậy. Từ quá khứ, hiện tại, suy đến vị lai, tất nhiên chư Phật vị lai cũng có chế độ này. Vì vậy, Bát Trai Giới tuy có vẻ đơn giản, song rất ư trọng yếu, đáng cho Phật tử thường luôn thọ trì, học tập phát xuất gia Bát Quan Trai này, để từ từ tiến đến việc chánh thức xuất gia

Ở đây, hẳn có người tự hỏi: “Phật pháp đã có hai chúng xuất giatại gia. Hàng đệ tử tại gia có thể ở nhà tu học được rồi, cần gì phải chế pháp xuất gia tạm thời này?” Về điểm này, tôi xin minh xác cùng quý vị: Phật pháp tuy cũng nói có thế gian pháp, nhưng vẫn lấy xuất thế làm mục đích tối hậu, không hề coi thế gian pháp là trọng. Những người đắm nhiễm thế gian, dĩ nhiên muốn họ xuất thế không phải điều dễ, hơn nữa, sức họ cũng không làm nổi chuyện đó. Nhưng bất luận họ đủ sức hay không, để đạt được mục đích tối cao, chỉ cần trong đầu óc người học Phật luôn tâm niệm rằng đây là mục đích duy nhất của mình. Không những chỉ vậy mà còn phải luôn ghi nhớ không quên, mong mỏi sẽ có ngày thực hiện trọn vẹn được mục đích xuất thế. Đó là căn bản của việc học Phật. Người học Phật nếu khôngý niệm này thì dẫu học hay tu hành môn nào, cũng vẫn không tương ưng với tinh thần chính yếu của Phật pháp

Phật pháp đã coi xuất thếmục đích cao nhất, xuất gia lại là con đường để đi tới mục đích này, nên tuy là hàng tại gia học Phật cũng cần tìm cách học tập đời sống xuất gia để sau này ắt có ngày chân chính xuất gia, dõng tiến trên con đường xuất thế giải thoát. Phật pháp dĩ nhiên chẳng kêu gọi hết cả mọi người phải xuất gia, chỉ có điều hoàn cảnh thanh tịnh và phương thức sinh hoạt của đời sống xuất gia thích hợp với những người tìm cầu xuất lytiến tu giải thoát, bởi họ nhận ra rằng đây là con đường thích hợp nhất để đạt được xuất thế giải thoát

Tại sao trong Phật giáo lại coi trọng pháp xuất gia như vậy? Bất luận các Thánh Quả của hàng Đại Thừa hay Tiểu Thừa, dù A La Hán Quả hay Vô Thượng Phật Quả, cũng đều do xuất gia mới hoàn thành. Như hỏi ba đời chư Phật thành Phật cách nào? Đức Phật trả lời trong kinh, không có vị Phật nào không từ xuất giathành Phật. Nếu đã như vậy, chúng ta học Phật, mong mỏi tương lai thành Phật, nếu không phát tâm xuất gia, làm sao thành tựu được mục đích thành Phật? Luận Bồ Tát Bổn Sinh nói: “Lợi ích của xuất gia cao hơn cả Tu Di, sâu hơn biển cả, rộng hơn hư không. Sở dĩ như vậy là do xuất gia mới thành Phật, ba đời chư Phật chưa có vị nào thành Phật mà không do nhờ xả gia xuất gia cả”. Vì vậy, người hành Phật pháp, nếu muốn chứng thành Phật Quả, tất phải có ngày xả tục xuất gia. Muốn khỏi xuất giathành Phật, cứ y theo kinh điển thì điều này không thể thành tựu được. 

Chẳng những ba đời chư Phật như vậy, mà ngay cả đến A La Hán của Tiểu Thừa cũng thế. Cứ như thuở giờ vẫn thấy người xuất gia chứng Sơ Quả, tại gia cũng chứng Tu Đà Hoàn, cho đến hàng xuất gia chứng Tam Quả, tại gia chúng cũng chứng quả Bất Hoàn (A Na Hàm), điều này chẳng có gì lạ từ thời Phật đến sau này, nên ba quả đầu, xuất gia, tại gia đều có thể chứng quả bình đẳng như nhau. Trừ ra A La Hán, tại gia không thể chứng được. Điều này không có nghĩa hàng cư sĩ học Phật không có khả năng chứng quả A La Hán, mà ngụ ý phải hiện tướng xuất gia trước khi chứng A La Hán quả. Như sắp chứng A La Hán quả mà vẫn xả không nổi mái tóc, xuất gia thì vẫn dừng ở Tam Quả. Vậy nên mới biết: Xuất gia mới đạt được quả vị cao nhất của cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa

Nhưng vì đời sống xuất gia không đơn giản đến mức độ ai cũng làm được, nên đức Phật đại từ đại bi, vì hàng tại gia học Phật, chế ra Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm để huấn luyện cho người học Phật từ từ quen với đời sống xuất gia. Vì vậy, Thái Hư Đại Sư nói: “Đây là Phật vì cư sĩ tại gia chế ra giới điều để luyện tập ngắn hạn đời sống xuất gia”. Hoặc có người cho rằng: “Tôi đã thọ ngũ giới, hoặc đã thọ Bồ Tát giới, cần gì phải thọ Bát Quan Trai giới?” Phải biết thọ Bát Quan Trai Giớithọ sự huấn luyện đời sống xuất gia, cũng như tân binh phải tập tác chiến, từ từ huấn luyện không ngừng sẽ trở thành thói quen, khác hẳn thọ ngũ giới hay tại gia Bồ Tát giới sống đời thế tục. Đây là điều chư vị phải nhận thức rõ ràng trước tiên

Có người ngỡ đời sống xuất gia rất đơn giản, cho rằng xuất gia là chuyện dễ, thậm chí bảo rằng người xuất gia được hưởng phúc nhàn. Nào hay đời sống xuất gia rất mộc mạc, thanh bần, ngay đến nhu yếu trong đời sống như y phục, đồ ăn, chốn ở đều khác người thường. Trong Giới Luật đã dạy chúng ta: Hàng nam tử, nữ nhân xuất gia phải mặc áo hoại sắc, phải bỏ hết các món trang sức, phải ở phòng ốc giản lậu; y lời Phật dạy, xuất gia còn phải ôm bát đi khất thực. Các vị hiện tại thọ Bát Quan Trai Giới, bao nhiêu nữ trang, vàng ngọc đều rời bỏ, y phục hoa hòe đều được thay bằng áo hoại sắc, đó là tập đời sống thanh đạm của người xuất gia. Các vị đều nhất nhất làm tròn, chứng tỏ các vị đã nhận chân được trong lúc sống đời xuất gia, là đang quan sát để cải tiến đời sống vật chất hưởng thụ của ngày hôm nay. Các vị hẳn rất khó được như vậy. 

Song thực sự xuất gia không chỉ có như vậy, trong Giới Luật dạy phải khéo nhẫn chịu mười việc: 

1) Thứ nhất, trời lạnh phải chịu đựng được hàn khí xâm hại, chẳng nề mưa tuyết, gió sương. 

2) Thứ hai, trời nóng phải kham nổi nắng thiêu gay gắt, chẳng quản khí trời oi ả như thiêu như đốt. 

3) Thứ ba, phải chịu đựng được các thứ bức hại từ thiên nhiên, chẳng ngại một thứ nào cả. 

4) Thứ tư, phải chịu được sấm sét rung trời, quyết không vì vậy mà sợ sệt rúc trốn. 

5) Thứ năm, khi bụng đói cồn cào vẫn phải chịu đựng được cơn đói.

6) Thứ sáu, miệng khô, cổ rát vẫn nhẫn được cơn khát.

7) Thứ bảy, nghiêm cách tuân thủ không ăn quá ngọ, mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng ngọ, hoặc hai bữa sáng và ngọ. 

8) Thứ tám, nghiêm cách trì giữ các giới hạnh của Đức Phật chế ra, cho dẫu lúc bị đe dọa tánh mạng , cũng không được làm trái giới luật.

9) Thứ chín, nhẫn chịu các ác ngữ khi nghe lời nhục mạ, chế giễu, nói bóng, nói gió, nói sàm, nói quấy của người khác, phải tảng lờ như không nghe, quyết không cho đó là điều ngang ngược. 

10) Thứ mười, nhẫn chịu độc trùng làm hại. Bởi lẽ, Ấn Độ là xứ nhiệt đới, các vị Tỳ Kheo thường ngồi dưới gốc cây. Trong mười hai hạnh Đầu Đà, có pháp ngồi dưới gốc cây. Muỗi mòng và độc trùng đến bức hại, Đức Phật chỉ cho phép đuổi loài độc đi, hoặc các vị Tỳ Kheo phải sắp xếp nơi chốn sạch sẽ, tránh làm chỗ sanh sản cho độc trùng, tuyệt đối cấm Tỳ Kheo không được giết hại độc trùng

Như mười điều đã nói ở trên, nghe có vẻ giản đơn, song biết bao người nhẫn chịu không nổi mười điều này, nên trong Luật, Đức Phật nói rằng: “Chỉ có đại trượng phu mới nhẫn nổi”. Xuất gia cho đúng pháp, thực là điều cao quý. Nếu chịu không nổi các sự bức hại của hoàn cảnh, sự đả kích của tha nhân, sự gây tổn hại của độc trùng, sự đạm bạc của đời sống, thì không bao giờ trở thành người xuất gia chân chính được. Vì vậy, thật tình mà nói, xuất gia không phải là chuyện dễ. 

Đức Phật vì hàng tại gia học Phật, chế Cận Trụ Luật Nghi học tập đời sống xuất gia, phải nói đó là thiện xảo phương tiện, bởi lẽ Đức Phật hiểu rõ căn lành giải thoát xuất thế không thể gieo trồng trong chốc lát, phải huân tập lâu dần mới thành tựu. Tuy vẫn có thể học Phật tại nhà, song hiềm bị quyến thuộc bao quanh, ân ái trói buộc thân tâm, điều này gây trở ngại không ít cho mặt tu trì, nên Đức Phật phương tiện chế Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm, khiến hàng nhị chúng nam nữ học Phật tuy ở trong gia đình mà vẫn làm được như trong Kinh Bát Đại Nhân Giác: “Ngũ dục họa hoạn, không nhiễm thế duyên” để có thể làm nổi: “Thường niệm ba y, bình bát pháp khí, chí nguyện xuất gia”. Như vậy mới được nhân duyên thù thắng xả tục xuất gia, giải thoát ràng buộc. Cho nên Bát Quan Trai Giới chính là một trong những pháp môn phải tu của người học Phật tại gia muốn tiến lên con đường giải thoát

Thọ trì Bát Quan Trai Giới đã là sự huấn luyện cho người tại gia tập đời sống xuất gia nên tôi rất mong trong số các vị thọ giới hôm nay, do sự huấn luyện này mà chân chánh phát tâm xuất gia. Phật giáo ngày nay mong mỏi có người, đặc biệtnam nhân, phát tâm xuất gia. Điều này đã trở thành vấn đề cấp bách. Bởi vì trong nước cũng như hải ngoại, Tăng chúng càng ngày càng ít. Nếu không có những người mới xuất gia bù vào, chẳng những không người hoằng dương chánh pháp, mà ngay đến chùa chiền cũng thiếu Tăng trụ trì. Như thế há bảo vấn đề chưa đến nỗi nghiêm trọng ư? Sự kiện này há không khiến những người quan tâm đến sự tồn vong huệ mạng Phật giáo lo như lửa đốt sao? Há không tìm cách lôi kéo thanh niên đến chùa học Phật xuất gia sao? Há không vì mạng mạch của Tăng già sắp đứt mà tìm cách cứu vớt sao? 

Kinh luật dạy chúng ta: “Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, khuyên người xuất gia, khen ngợi kẻ xuất gia, hoặc chính mình xuất gia, hoặc để người xuất gia, đều có đại công đức”. Như Kinh Hiền Ngu Nhân Duyên thuyết: “Cho người xuất gia hoặc tự xuất gia, hoặc già hoặc trẻ, phúc đức vô cùng”. Nhưng tôi cho rằng: ngày nay Tăng chủng sắp đoạn tuyệt, nếu khéo khuyên người xuất gia, hoặc huấn luyện người xuất gia, thì được công đức cũng không thể nghĩ bàn. 

Phật giáo sở dĩ có chế độ xuất gia, đức Phật sở dĩ lập Tăng đoàn, mục đích để cho chánh phápNhư Lai cần khổ chứng được được tiếp nối lâu bền ở thế gian. Cũng bởi lẽ này nên đức Phật đã trịnh trọng giao phó trụ trì Tam Bảo cho hàng Tăng chúng. Có Tăng chúng hành hóa, một số người mới biết có Phật, có Pháp. Giả sử nếu khôngTăng chúng, thử hỏi ai biết được chánh pháp của Như Lai, biết được bậc Đại Giác? Vì thế, bất cứ ở thời đại nào, dầu là thời Chánh Pháp, Tượng Pháp hay Mạt Pháp đi nữa, Tăng Già, một trong Tam Bảo, vẫn không sao thiếu được. Nếu Tăng không có, Phật pháp ắt diệt vong. Phật Pháp lưu hành được ở thế gian hay không cũng tùy thuận nơi có Tăng Già hay không. Luật nói: “Tăng có thì Pháp có, Pháp có tức Phật có”. Đây là nói rõ ý đó vậy. 

Vì Tăng có, để Pháp có là do nơi có người xuất gia. Như nếu không người xuất gia, thử hỏi Tăng ở đâu mà có? Thế nên, xét đến tột gốc, việc thứ nhất vẫn là khuyên người xuất gia. Như tự mình không khuyên người xuất gia, người khác tự đến xuất gia, lý ra khuyến khích và tán thán. Giả như không làm như vậy, mà ngược lại chế giễu, khinh miệt, cản trở người xuất gia, khác gì diệt mất hạt giống Tăng Già, cũng đồng với diệt hạt giống Phật, lỗi này rất lớn vậy. Kinh Xuất Gia Công Đức nói: “Nếu có người phá hoại nhân duyên xuất gia của người khác, tức là cướp đoạt kho báu vô tận phúc thiện, hủy hoại nhân của 37 phẩm Trợ Đạo; ở nơi bốn đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhân), sanh ra thường đui, người này không có ngày giải thoát”. Như vậy, vào thời buổi Tăng chủng sắp diệt này, chúng ta sao đành nhẫn tâm phản đối người ta xuất gia

Xuất gia trong đạo Phật là việc cao thượng, không như một số người tưởng tượng, không còn cách gì nữa mới xuất gia. Nhưng người Trung Quốc đối với xuất gia thuở giờ thường hay quan niệm cho rằng xuất gia rồi không được hoàn tục, làm cho nhiều người muốn xuất gia mà không dám, vì sợ xuất giatrở về thì rất khó coi. Kỳ thật, Phật Pháp không có quy định cứng ngắc “xuất gia không được hoàn tục”, mà vẫn cho phép trở về. Vào thời không người phát tâm xuất gia này, điều này càng cần phải nhấn mạnh. Như vậy, bất kể ai, chỉ cần phát tâm xuất gia, không cần quy định kỳ hạn xuất gia, xuất gia hai ba tuần cũng được, hai ba tháng cũng được, đôi ba năm cũng tốt, được trường kỳ càng tốt. Đến lúc nào đó, muốn trở lại đời sống thế tục, cứ việc tự do rời đạo về thế. 

Có điều hoàn tục cần có điều kiện, không được lén lút mà phải công khai trở về, phải trình bày rõ với một vị cao tăng. Như vậy, tuy hoàn tục vẫn là đệ tử Tam Bảo, vẫn thường lui tới chùa chiền. Ngày trước, những người xuất gia muốn hoàn tục phải lén lút trốn về. Tại vậy nên một khi hoàn tục là bỏ hết mọi quan hệ với Phật pháp, trong Phật pháp không còn thấy bóng dáng người đó nữa, chẳng những mất đi một vị Tăng, còn mất thêm một tín đồ, thật là mất mát cho Phật Giáo. Thái Hư Đại Sư hiểu rõ việc này nên hô hào mọi người nên “tôn trọng Tăng nhân hoàn tục”. Do đó, chư vị như không thể trọn đời xuất gia, cũng không nên ngại xuất gia ngắn hạn thử. Được tinh thần này, xuất gia cứ xuất gia, hoàn tục cứ hoàn tụctrôi chảy chẳng dừng, khiến Tăng chủng không dứt, chùa chiền trụ trì cũng không thành vấn đề! 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29881)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27161)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21762)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23601)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20416)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18982)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24731)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30968)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26504)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23208)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38116)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19948)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19029)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23139)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23865)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22783)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22902)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29559)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15843)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18842)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19644)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20145)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19947)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34158)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39223)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26046)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18842)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24048)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29105)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30937)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26846)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20663)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26244)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23317)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24667)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30019)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20212)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15136)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23865)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant