Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Lập Nghĩa

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7491)
Phần Lập Nghĩa

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN GIÁC NGỘ

Tác giả : MÃ MINH - Dịch & giải: Chân Hiền Tâm
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh 2004

Phần LẬP NGHĨA

Đại thừa, nói tổng quát có 2 thứ. Thế nào là 2? Một là pháp, hai là nghĩa.

NÓI TỔNG QUÁT là nói sơ qua hay nhìn chung. Phân 2 là để rõ vấn đề.

I. PHÁP : Gọi là pháp ấy, là tâm chúng sanh. Tâm này nhiếp tất cả pháp thế gianxuất thế gian. Y nơi tâm này hiển thị nghĩa Đại thừa. Vì sao? Vì tướng chân như của tâm ấy tức chỉ cái thể của Đại thừa, tướng nhân duyên sanh diệt của tâm ấy thì chỉ tự thể, tướng và dụng của Đại thừa.

Ngoài Phật ra, tất cả đều gọi là CHÚNG SANH

PHÁP ẤY là chỉ cho cái THỂ chân như thường hằng không biến đổi, là pháp thể của Đại thừa. Ngài Hám Sơn nói “PHÁP ấy là THỂ của nhất chân pháp giới đại tổng tướng pháp môn”. 

Hỏi : Phần chánh văn nói “Pháp ấy là tâm chúng sanh”, vì sao lại giải thích PHÁP ẤY là THỂ của nhất pháp giới? Nếu là THỂ chân thường thì không sanh không diệt, trong khi tâm chúng sanh thì có sanh diệt. Nếu PHÁP ẤY là thể của nhất pháp giới, vì sao không nói thẳng pháp ấy là THỂ của nhất pháp giới mà nói “Pháp ấy là tâm chúng sanh”? 

Đáp : Nói là THỂ của “Nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn” là muốn nói đến phần thâm nghĩa của Đại thừa. Tu hành là cả một quá trình chuyển hóa từ phàm đến thánh, từ chỗ sanh diệt đến chỗ không sanh diệt. Đại thừa nhơn đó mà có cạn sâu. Vì vậy không nói thẳng PHÁP ẤY là THỂ của nhất pháp giới. Không nói thẳng nhưng biết chắc PHÁP ẤY không phải chỉ cho tâm vọng tưởng. Vì mở đầu Luận chủ nói “Đại thừa có 2 thứ. Một là pháp, hai là nghĩa”. Phần NGHĨA sau nói về 3 ĐẠI cũng là 3 cái ĐẠI của thiện pháp thế gianxuất thế gian.

Nói tâm chúng sanh mà không nói thẳng cái thể chân thường là để chúng sanh biết PHÁP ẤY không ngoài tâm chúng sanh mà có. Tâm ấy chính là chỗ y cứ để lập ra Đại thừa. Không có tâm ấy thì Đại thừa cũng chẳng lập. Vì thế nói PHÁP mà trước nói là tâm chúng sanh.

Lấy THỂ ra giải thích là muốn hiển bày ngay nơi cái sanh diệt chính là cái không sanh diệt. Dù sanh diệt nhiễm ô bao nhiêu, là phàm hay thánh, là địa ngục hay súc sanh thì tâm ấy vẫn đó, muôn đời bất tận. Chẳng qua vì mê hay ngộ mà thấy có khác chứ không hề có tâm khác. Như sợi dây, do mờ tối mà người thấy thành rắn, người thấy thành nhánh cây khô. Tùy cái thấy lầm của mỗi người mà sợi dây thành rắn hay nhánh cây khô, còn bản chất thật của nó vẫn là sợi dây. Khi giải thích, nói sợi dây mà không nói con rắn hay cây khô là muốn hiển bày đúng như chính nó. Cũng vậy! Dù là tâm chúng sanh thì từ vô thủy đến nay, tâm ấy vẫn là pháp thể chân như thường hằng không biến đổi. Cho nên, dù “Pháp ấy là tâm chúng sanh” thì PHÁP ẤY vẫn là “Thể của nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn”.

“TÂM NÀY nhiếp tất cả pháp thế gianxuất thế gian” vì thể và tướng của tâm này không chướng ngại nhau. Nhiễm và tịnh cùng nương tâm này. Theo dòng bất giác hoặc ngược dòng hoàn tịnh chỉ một tâm này mà chuyển. Nếu theo duyên nhiễm thì thành bất giác, thu nhiếp pháp thế gian. Nếu là bản giácthủy giác thì nhiếp pháp xuất thế gian

“Y NƠI TÂM NÀY hiển thị nghĩa Đại thừa” vì không có tâm chúng sanh thì nghĩa Đại thừa cũng chẳng lập. Vì có tâm chúng sanh, y tâm đó mà lập nghĩa Đại thừa. Tâm chúng sanh là chỗ y cứ lập nên Đại thừa, nên nói là Y TÂM ĐÓ. Ngay tâm đó mà lập nghĩa Đại thừa nên ai cũng có thể phát niềm tin chân chánh đối với Đại thừa, ai cũng có khả năng thành Phật, và tu hành thì phải ngay tâm đó mà tu, không thể nương cầu bên ngoài.

TƯỚNG và THỂ (còn gọi là TÁNH) là từ nhà Phật dùng để chỉ hình tướngbản chất của một pháp. Người đời thường cho thế giớivạn pháp hiện có đây là thật, tức nhập TƯỚNG và TÁNH làm một, cho TƯỚNG chính là TÁNH. Dưới cái nhìn của nhà Phật, TƯỚNG là thứ có thể thấy ở được ở một pháp, nhưng TÁNH thì không. Kinh hay gọi là TÁNH KHÔNG. Nói pháp KHÔNG không phải vì tướng nó không mà vì cái tướng ấy không có chất thật, cái không ấy không phải là tướng mình có thể thấy. Thứ gì còn là đối tượng của cái thấy đều là vọng dù đó là tướng không. Vạn pháp vì đó, chỉ như sóng nắng hay hoa đốm trên không, có hình mà không có chất. 

Pháp nào ở thế gian cũng có 2 phần tướng và tánh đó. Song nói TÁNH nói TƯỚNG là để nắm được vấn đề, không phải có thể tách chúng làm 2 như TƯỚNG và TÁNH đang phân đây. Vì cái không thể tách lìa được này mà trong ‘Tướng nhân duyên sanh diệt của tâm ấy’ không phải chỉ có 2 phần TƯỚNG và DỤNG mà phải gom luôn cái THỂ đã phân trong phần Tướng Chân Như.

Như nước, nước đá và hơi nước đều có bản chất là H2O. H2O gọi là THỂ của 3 thứ đó. Hình thức nước, nước đá hay hơi nước mà ta đang cảm nhận đó gọi là TƯỚNG. Tuy cùng một THỂ mà TƯỚNG lại khác nhau vì tùy duyên. Trong cái duyên là nhiệt độ bình thường, ta có nước. Trong cái duyên nhiệt độ cao, ta có hơi nước. Trong cái duyên nhiệt độ thấp, ta có nước đá. Song dù mang hình tướng nào, chúng vẫn không rời cái THỂ H2O. Không có cái THỂ này thì không thể có các tướng và dụng ấy. Vì vậy tướng nhân duyên thì đủ cả 3 thứ là THỂ, TƯỚNG và DỤNG mà không phải 2, dù đã phân phần THỂ qua phần Tướng Chân Như

Duyên khởi mới có TƯỚNG, nên gọi là TƯỚNG NHÂN DUYÊN. Tướng do nhân duyên sanh nên không tánh. Không tánh nên pháp không có tướng cố định mà sanh diệt sanh diệt thay đổi liên tục. Bởi cớ sự ấy mà nói là TƯỚNG NHÂN DUYÊN SANH DIỆT.

DỤNG là chỉ cho mặt tác dụng của pháp. Pháp nào cũng có cái dụng của riêng nó. Như nước để uống, nước đá để chườm đầu, hơi nước dùng chạy tàu v.v… Phải có THỂ thì mới có TƯỚNG. Đã có THỂ và TƯỚNG thì có DỤNG. 

Pháp XUẤT THẾ GIAN là chỉ cho 4 thánh : Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật. Pháp THẾ GIAN là chỉ cho 6 phàm : Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, trời, atula. Vì tâm này vốn là chân như nên nó nhiếp pháp xuất thế gian. Vì y nơi nghiệp thức mà có sanh tử nên nó nhiếp pháp thế gian. NHIẾP nghĩa là thu gom, nắm giữ. 

Trên đã chỉ ra tâm pháp chân vọng, làm rõ pháp thể Đại thừa. Dưới nói rõ về NGHĨA của pháp ấy.

II. NGHĨA : Có 3 thứ. Thế nào là 3?

1. THỂ đại : Vì là chân như bình đẳng chẳng tăng chẳng giảm của tất cả pháp.

2. TƯỚNG đại : Vì Như Lai Tạng đầy đủ vô lượng tánh công đức.

3. DỤNG đại : Vì hay sanh tất cả thiện nhân quả của thế gianxuất thế gian.

Đây là chỗ nương gốc của tất cả chư Phật. Tất cả Bồ tát đều nương nơi pháp này mà đến đất Như Lai.

NGHĨA, tương đương với từ ‘nghĩa lý’ hay ‘nội dung’. Phần NGHĨA này được lập ra là để hiểu vì sao có tên Đại thừa. Gọi là ĐẠI vì nó có 3 nghĩa thể, tướng và dụng lớn không có bờ mé. Gọi là THỪA vì nhờ nó, chư Phật và Bồ tát mới có thể viên mãn Phật quả. THỪA, nghĩa của nó là nương, vận chuyển. Nương đó mà đi nên gọi là THỪA. Ngài Hám Sơn nói “Nương nơi 2 pháp chân vọng mà có 2 chuyển y nên gọi là THỪA”. 2 chuyển y là chuyển phiền não thành niết bàn, chuyển sở tri thành bồ đề. Chư Phật và Bồ tát nương 2 cái chuyển ấy để đến đất Như Lai nên gọi là THỪA. Thừa ấy chư Phật và Bồ tát mới kham nhận được nên gọi là ĐẠI. 

3 thứ thể, tướng và dụng này đã có phần Giải Thích giải rõ nên đây không đi vào chi tiết

CHỖ NƯƠNG GỐC là chỉ cho Đại thừa. GỐC vì không có nó thì không có việc thành Phật

ĐẤT NHƯ LAI là chỉ cho ‘pháp tánh chân như’ sẵn đủ trong mỗi chúng sanh. Nói là ĐẾN nhưng ngay đó mà nhận, ngay đó mà tu, ngay đó mà thể nhập. Ngay đó là ngay nơi cái tâm sanh diệt mình đây. Buông hết những phân biệt, vui, buồn, suy nghĩ, nhớ mong v.v… thì ngay đó là đất Như Lai.

Đã nói phần Lập Nghĩa, kế là phần Giải Thích

Đây là kết phần trước, giới thiệu phần sau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19699)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23959)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41217)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19693)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23980)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21746)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23301)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27504)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26570)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33191)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20192)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25769)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31318)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38576)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21437)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44254)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29824)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42198)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22138)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45755)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32108)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23953)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24389)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29271)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33916)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27680)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32132)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21062)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28848)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21578)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22073)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21433)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19497)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19245)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29176)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20616)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28297)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33181)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31841)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21373)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21547)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19375)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26393)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24822)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21755)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22383)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29131)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22554)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23516)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21236)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35320)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24546)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant