Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6 Phát Thú Đạo Hướng

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6422)
Chương 6 Phát Thú Đạo Hướng

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
Bồ Tát Mã Minh
Chân Đế dịch ra Hán Văn - Cao Hữu Đính dịch ra Việt văn 

Chương 6

Phát Thú Đạo Hướng

 Phân biệt phát thú đạo hướng là phân tách cái Tướng Đạo mà tất cả Chư Phật chứng đắc, tất cả Bồ Tát phát tâm tu hành để mau đi đến đó. Lược nói phát tâm có ba loại. Ba loại ấy là gì?

 Một là phát tâm của cấp Tín Thành Tựu.

Hai là phát tâm của cấp Giải Hạnh.

Ba là phát tâm của cấp Chứng.

Tín Thành Tựu Phát Tâm:

Phát tâm Tín Thành Tựu là nương vào những hạng người nào, tu theo những hạnh gì mà thành tựu được tín tâm, khiến cho họ đủ sức phát tâm?

Họ là hạng chúng sanh được mệnh danh là Bất Định Tụ. Nhờ có sức của căn lành huân tập cho nên họ tin quả báo của Nghiệp, khởi hành thập thiện, chán khổ sanh tử, mong cầu Vô Thượng Bồ Đề. Được gặp Chư Phật, đích thân cúng dường, tu hành tín tâm, trải qua một vạn kiếp, vì tín tâm đã thành tựu cho nên được Chư Phật Bồ Tát dạy cho phát tâm hoặc nhờ dấy lòng đại bi cho nên có thể tự phát tâm. Hoặc nhận thấy chánh pháp sắp diệt, vì muốn tạo nhân duyên để hộ trì chánh pháp mà có thể tự phát tâm. Do tín tâm thành tựu mà được phát tâm như vậy thì vào Chánh Định Tụ, rốt ráo không thối lui, gọi là trú trong hột giống của Như Lai, tương ưng với Chánh Nhân.

Nếu có những ai mà căn lành quá mỏng, vì từ nhiều kiếp đến nay phiền não quá sâu dầy, thì dù cho có được gặp Phật và được cúng dường Phật, nhưng họ cũng chỉ phát khởi được hột giống trời người, hoặc hột giống Nhị Thừa. Giả sữ họ có cầu pháp Đại Thừa đi nữa, thì căn tánh cũng bất định, có thể tiến có thể thối. Hoặc có cúng dường Chư Phật, nhưng chưa đầy một vạn kiếp, bổng gặp nghịch duyên, cũng gọi là có phát tâm đấy, nhưng đây là loại phát tâm vì thích sắc tướng của Phật. Hoặc nhân cúng dường chúng tăngphát tâmHoặc nhân gặp Nhị Thừa giáo hóa mà khiến phát tâm. Hoặc vì bắt chước người khác mà phát tâm.

Các loại phát tâm như thế thảy là Bất Định, rủi gặp nhân duyên xấu ác, có thể thối thất hoặc rơi vào đất Nhị Thừa.

Phát tâm của Tín Thành Tựu là phát những tâm gì? Nói ước lược thì có ba loại. Ba loại ấy là gì?

Một là Trực Tâm, tức là Tâm chánh niệm cái Chân Như.

Hai là Thâm Tâm, tức Tâm ưa thích quy tụ các hạnh lành về với mình.

Ba là Đại Bi tâm, tức là tâm ưa muốn diệt trừ tận gốc tất cả khổ đau cho chúng sinh.

Hỏi: trên nói Tướng của Pháp giới chỉ là một, Thể của Phật không hai. Tại sao không niệm chỉ một mình cái Chân Như, mà còn phải mượn phương tiện cầu học các hạnh lành?

Đáp: Ví như viên ngọc Ma Ni to, thể chất trong suốt, nhưng có vết quặng dơ. Mặc dù có nghĩ đến tánh quý của ngọc, nhưng nếu không biết dùng phương tiện mà dũa mài bằng nhiều cách thì không bao giờ ngọc ấy được sáng. Cái Chân Như nơi chúng sanh cũng vậy, thể của nó rộng suốt thanh tịnh, nhưng có vô lượng cấu nhiễm phiền não. Mặc dù có niệm Chân Như, nhưng nếu không biết dùng phương tiệnhuân tập tu hành bằng nhiều cách, thì cũng không được thanh tịnh.

Vì có cấu nhiễm nhiều vô lượng và có khắp trong tất cả các pháp, cho nên muốn đối trị là phải tu tất cả các hạnh lành. Nếu ai tu được tất cả các hạnh lành thì tự nhiên trở về với Chân Như và thuận chiều với Chân Như.

Nói ước lược thì phương tiện có bốn loại. Bốn loại ấy là gì?

Một là phương tiện hạnh tu căn bản. Ấy là quán tự tánh của tất cả các pháp vô sanh, xa lìa vọng kiến, không ở trong sanh tử. Lại quán tất cả các pháp do nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả không mất mà khởi tâm đại bi, gây nên các phước đức để nhiếp hóa chúng sanh, không ở trong Niết Bàn. Không ở trong cả hai là vì tùy thuận tánh các pháp vốn vô trú.

Hai là phương tiện ngăn chặn điều ác. Ấy là thẹn mình hỗ người, sám hối tội lỗi, nhờ đó mà ngăn chặn điều ác không cho lớn thêm. Như vậy là vì tùy thuộc thuận tánh các pháp vốn xa lìa tội lỗi.

Ba là phương tiện phát khởi căn lành và tăng trưởng căn lành. Ấy là siêng năng cúng dườnglễ bái Tam Bảo, tán thántùy hỷ, khuyên mời Chư Phật giáo hóa. Nhờ Tâm thuần hậu kính yêu Tam Bảo ấy mà tín tâm được tăng trưởng, rồi mới có thể lập chí cầu đạo vô thượng. Lại nhân được sức gia hộ của Tam Bảotiêu trừ các nghiệp chướng, khiến căn lành không thối thất. Như vậy là tùy thuận tánh các pháp vốn xa lìa chướng ngại si mê.

Bốn là phương tiện đại nguyện bình đẳng. Ấy là phát nguyện hóa độ tất cả chúng sanh, cho đến tận cùng đời vị lai, không bỏ sót một ai, khiến tất cả đều rốt ráo vào vô dư Niết Bàn. Như vậy là tùy thuận tánh của các pháp vốn không đoạn tuyệt. Tánh các pháp rộng lớn, hiện diện cùng khắp tất cả chúng sanh; Tánh ấy bình đẳng không hai, không phân biệt bỉ thử, rốt ráo tịch diệt vậy.

Bồ Tát nhờ phát tâm ấy rồi, thời được thấy một phần nhỏ của Pháp thân. Đã thấy được Pháp thân, thời tùy theo nguyện lực riêng mà hiện ra được tám tướng lợi ích chúng sanh. Đó là: Từ Trời Đâu Xuất xuống, vào thai mẹ, ở trong thai, ra khỏi thai, xuất gia, thành đạo, giáo hóa, và vào Niết Bàn. Nhưng Bồ Tát ấy chưa được gọi là Bồ Tát Pháp Thân vì các nghiệp hữu lậu gây ra từ quá khứ lâu xa cho đến lúc đó chưa cắt đứt hết, cho nên sanh ra ở đâu thì tùy theo chỗ đó mà có những nghiệp khổ vi tế. Nhưng đó cũng không phải là bị nghiệp buộc ràng, vì có sức tự tại của Đại Nguyện. Như trong kinh có chỗ nói rằng còn bị thối đọa vào ác thú, thật ra thì không phải như vậy. Đó là chỉ vì các Bồ Tát sơ học chưa vào được Chánh Định Tụ mà giãi đãi, cho nên Phật nói như thế để họ sợ hãitinh tấn dõng mãnh hơn lên. Lại nữa, các Bồ Tát ấy sau khi đã phát tâm này thời không còn khiếp nhược, rốt ráo không sợ đọa vào đất Nhị Thừa. Dù nghe nói phải cần khổ tu hành trải qua vô lượng vô biên vô số kiếp mới đắc Niết Bàn, cũng chẳng khiếp sợ. Vì họ tin và biết tất cả các pháp, từ trong bản chất, đã là Niết Bàn rồi.

Giải Hạnh Phát Tâm:

Qua sự phát tâm của Giải Hạnh thì nên biết là đã trở thành thù thắng hơn. Vì Bồ Tát này từ Sơ Phát Tâm Chánh Tín đến nay, khi a tăng kỳ kiếp đầu sắp hết, thâm giải pháp tánh của Chân Như, tu phép Ly Tướng. Vì biết thể của pháp tánh xa lìa xan tham, cho nên tùy thuậntu hành Bố Thí Ba La Mật. Vì biết pháp tánh không nhiễm ô, xa lìa tội lỗi ngũ dục, cho nên tùy thuậntu hành Trì Giới Ba La Mật. Vì biết pháp tánh không đau khổ, xa lìa não hại của sân hận, cho nên tùy thuậntu hành Nhẫn Nhục Ba La Mật. Vì biết pháp tánh không có tướng thân tâm, xa lìa giãi đãi, cho nên tùy thuậntu hành Tinh Tấn Ba La Mật. Vì biết pháp tánh thường định, thể nó không loạn, cho nên tùy thuậntu hành Thiền Định Ba La Mật. Vì biết thể của pháp tánh thường trong sáng, xa lìa vô minh, cho nên tùy thuậntu hành Bát Nhã Ba La Mật.

Chứng Phát Tâm:

Phát tâm cấp Chứng là, từ địa vị Tịnh Tâm lên tới địa vị Cứu Cánh, Bồ Tát chứng cảnh giới gì? Đó là Chân Như, nhưng vì nương vào Chuyển Thức cho nên nói là cảnh giới. Thật ra thì cái chứng đó không có tướng cảnh giới mà chỉ là Trí Chân Như, mệnh danh là Pháp Thân.

Bồ Tát ấy trong khoảng một niệm, có thể đến các thế giới ở cùng khắp mười phương, cúng dường Chư Phật, thỉnh Phật chuyển Pháp Luân, chỉ vì mục đích mở đường chỉ nẻo, làm lợi ích cho chúng sanh, không nương vào văn tự. Có khi vì chúng sanh khiếp nhược mà thị hiện mau thành Chánh Giác, vượt qua tất cả các địa vị tu hành. Có khi vì chúng sanh lười biếng khinh nhờn mà nói "ta trải qua vô lượng vô số kiếp mới thành Phật đạo". Thị hiện vô số phương tiện chẳng thể nghĩ bàn như thế, nhưng thật ra thì căn cơ chủng tánh của Bồ Tát ngang nhau, thì phát tâm ngang nhau, sở chứng cũng ngang nhau, không có chuyện vượt qua các địa vị được. Vì tất cả các Bồ Tát đều phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp tu hành. Chỉ vì chúng sanhthế giới không đồng nhau, các điều thấy nghe cũng như căn cơ, ham muốn và tánh tình có khác nhau, cho nên những việc mà Bồ Tát cấp chứng thị hiện ra cũng có sai khác.

Lại nữa, tướng của Tâm mà Bồ Tát ấy phát có ba loại với tướng rất vi tế. Ba loại ấy là gì?

Một là Chân Tâm vì nó không phân biệt.

Hai là Tâm Phương Tiện, vì nó khắp làm lợi ích cho chúng sanh một cách tự nhiên.

Ba là Tâm Nghiệp Thức, vì nó dấy khởi sanh diệt vi tế.

Lại nữa, Bồ Tát ấy khi công đức đã thành tựu viên mãn rồi, thì thị hiện thân rất cao lớn ở nơi cõi Sắc Cứu Cánh, trùm lên tất cả thế gian. Đó là cái tuệ giáctrong một niệm tương ưng, khiến cho vô minh lập tức rũ sạch, gọi là Trí Nhất Thiết Chủng, do đó mà tự nhiênNghiệp dụng không thể nghĩ bàn hiện ra khắp mười phương để làm lợi ích cho chúng sanh.

Hỏi: Hư không vô biên cho nên thế giới vô biênThế giới vô biên cho nên chúng sanh vô biênChúng sanh vô biên cho nên Tâm tạo tác sai khác cũng vô biênCảnh giới như vậy không thể chia cắt, khó biết khó hiểu. Nếu vô minh chấm dứt thì không có tâm tưởng, làm sao rõ biết được mà gọi đó là Trí Nhất Thiết Chủng?

Đáp: Tất cả cảnh giới, bản laiNhất Tâm, xa lìa tưởng niệm. Vì chúng sanh vọng quấy thấy có cảnh giới, cho nên tâm có chia cắt. Vì vọng tưởng khởi niệm không cân xứng với tánh các pháp, cho nên không thể rõ biết. Chư Phật Như Lai xa lìa tướng Kiến, không đâu không cùng khắp. Vì Tâm Chân Thật tức là Tánh của các pháp, Thể của nó soi sáng tất cả các pháp hư vọng, có diệu dụng của trí lớn mà hiện ra vô lượng phương tiện, rồi tùy theo chúng sanh ứng lại như thế nào đó mà được hiểu. tất cả những cái đó đều có thể mở bày nghĩa của pháp này pháp kia. Cho nên nó mới được gọi là Trí Nhất Thiết Chủng.

Lại hỏi: Nếu Chư Phật có nghiệp tự nhiên, hiện được ở khắp mọi nơi để làm lợi ích cho chúng sanh, và tất cả chúng sanh, hoặc thấy thân Ngài, hoặc nhìn thần biến, hoặc nghe Ngài nói, không một việc gì là không có lợi ích, thế nhưng tại sao thế gian phần nhiều không ai được thấy?

Đáp: Pháp thân của Chư Phật Như Lai bình đẳng hiện diện cùng khắp mọi nơi mà không tác ý, cho nên gọi là tự nhiên. Chỉ vì nương nơi tâm chúng sanhthị hiện, nhưng tâm của chúng sanh thì giống như tấm kiếng, nếu kiếng có bụi thì hình ảnh không hiện ra được. Cũng thế, tâm của chúng sanh nếu có bụi phủ thì Pháp thân cũng không hiện ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19862)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28975)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19446)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30504)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36431)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33236)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35572)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20992)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21926)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25800)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31268)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25146)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23776)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28945)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20869)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22529)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23288)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25753)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23727)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40617)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22454)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22102)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41111)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18998)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20493)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27730)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38129)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34081)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36791)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24005)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29200)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60166)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68751)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24539)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24504)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22720)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26375)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26551)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20826)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46444)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53588)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25583)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29272)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant