Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sơ Lược Tiểu Sử Tác Giả

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13490)
Sơ Lược Tiểu Sử Tác Giả

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TÁC GIẢ

TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM

blankBác sĩ Lê Đình Thám sanh năm 1897 tại làng Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Đoeẹn Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Bác sĩthứ nam của cụ Lê Đĩnh (làm quan dước triều Tự Đức với chức Đông các điện Đại học sĩ sung chức Binh bộ thượng thư) và mẹ là cụ bà Phan Thị Hiệu (kế thất).

I. ĐƯỜNG ĐỜI

Thời thơ ấu, Bác sĩ cùng anh là Lê Đình Dương (sau này là Đông Dương y sĩ) đã trực tiếp học chữ Hán với thân phụ. Cả hai anh em đều thông minh xuất chúng ngay từ thuở còn thơ.

Lớn lên, Bác sĩ theo học ở các trường Pháp – Việt. Trong những năm còn là học sinh hay sinh viên, Bác sĩ đã được cảm tình của cả thầy và bạn, luôn luôn giành vị thứ hàng đầu trong các kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp.

Bác sĩ tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương (Thủ khoa) tại Hà Nội năm 1916 và đỗ Y khoa Bác sĩ ngạch Pháp quốc tại Y khoa Đại học đường Hà Nội năm 1930.

Bác sĩ ra trường (1916) đúng vào lúc phong trào Duy Tân khởi nghĩa bị thất bại, bào huynh là y sĩ Lê Đình Dương bị Pháp bắt đày lên Ban Mê Thuột và mất tại đó. Bác sĩ bị tình nghi và luôn luôn bị theo dõi. Trong thời gian này, Bác sĩ còn nghiên cứu thêm về triết học Động phương như Nho, Lão, Phật,…

Năm 1926, trong lúc đang phụ trách y sĩ điều trị tại bệnh viện Hội An (Quảng Nam), Bác sĩ được tin cụ Phan Chu Trinh mất. Bác sĩ cùng những người yêu nước chống Pháp thời bấy giờ đã làm lễ truy điệu trọng thể và chịu tang nhà chí sĩ yêu nước. Thực dân Pháp đã thuyên chuyển Bác sĩ ra Hà Tĩnh, và sau đó ít lâu, lại thuyên chuyển về Huế đảm trách y sĩ trưởng Viện bào chế và vi trùng học Louis Pasteur. Ở đây, Bác sĩ đã cộng tác với Bác sĩ Normet (Giám đốc Y tế Trung kỳ) phát minh ra sérum Normet và mấy dược phẩm có giá trị khác. Trong thời gian này, Bác sĩ lên chùa Trúc Lâm, cách kinh đô Huế khoảng 12 km, để học đạo với Hòa thượng trụ trì ở đây là ngài Giác Tiên. Sau khi nhận chân được giáo lý cao thâm của đạo Phật, Bác sĩ đã chuyển hướng đời mình: Phát nguyện Qui y Tam bảo, trường trai trong những ngày còn lại của đời mình, quyết tâm nghiên cứu học hỏi kinh điểm Phật giáo để hoằng hóa độ sanh. Bác sĩ đã được Hòa Thượng Giác Tiên làm lễ thọ Tam qui Ngũ giới và đặt pháp danhTâm Minh.

 

II. ĐƯỜNG ĐẠO

Năm 1929 – 1933, Bác sĩ thọ giáo với Hòa thượng phướng Huệ (chùa Thập Tháp, Bình Định). Nghiên cứu các bài giảng của ngài Tái Hư đạo sư ở Trung Hoa về cách thức tổ chức Phật giáo, Bác sĩ đã đệ đạt ý kiến của mình lên quí Hòa thượng Phước Huệ, Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Khiết và được các Ngài chấp thuận. Từ đó Hội An Nam Phật học ra đời, do các vị tôn túc hòa thượngcư sĩ tiên tiến đứng ra chịu trách nhiệm gánh vác công cuộc hoằng dương Chánh pháp. Trụ trở đầu tiên đặt ở chùa Trúc Lâm do Bác sĩ làm Hội trưởng và các tôn túc Hòa thượng nằm trong Ban Chứng MinhCố vấn cho Hội. Sau đó, Hội dời trụ sở về chùa Từ Đàm (mới được xây dựng lại) và bắt đầu truyền đạo với nhiều hình thức mới do sáng kiến và công lao hàng đầu của Bác sĩ:

Thuyết pháp thường kỳ cho tín đồ nghe tại chùa Từ Đàm và Từ Quang.

- Mở trường đào tạo Tăng tài từ sơ đẳng đến cao đẳng Phật học.

Thành lập các Tỉnh hội, Chi hội, Khuôn hội để gánh vác trách nhiệm hoằng dương Chánh pháp khắp các tỉnh miền Trung.

Thành lập đoàn Thanh niên Phật học Đức dục, các Gia đình Phật hóa phổ.

- Xuất bản tờ báo Phật giáo (Nguyệt san Viên Âm).

Xây dựng Đại tòng lâm tại Kim Sơn (Huế).

Từ năm 1934 đến 1945 là những năm hoàn chỉnh các tổ chức Phật giáo và công cuộc đào tạo Tăng-tài. Kết quả của những năm tháng mà Bác sĩ đã đóng góp mãi mãi được ghi nhớ: Một thế hệ Tăng-sĩ tài ba đã nở rộ (trong đó có một số hiện nay đang giữ những nhiệm vụ trọng yếu trong Giáo hội); một giới cư sĩ Phật tử thuần thành, có thực tu thực học, trợ thủ đắc lực cho giới Tăng-già trong công cuộc hoằng dương chánh pháp.

 

III. ĐỜI ĐẠO HÀI HÒA

Mùa thu năm 1946, theo tiếng gọi chống thực dân Pháp cứu nước, Bác sĩ cùng gia đình rời khỏi Huế vào chiến khu tham gia kháng chiến chống Pháp đồng thời cũng tiếp tục làm Phật sự tại địa phương (Liên khu V). Sau khi công cuộc chống thực dân Pháp thắng lợi, Bác sĩ về thủ đô Hà Nội và được mời giữ chức Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới, góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân các nước, gìn giữ hòa bình. Cũng trong thời gian này, Bác sĩ được bầu làm Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam tại thủ đô Hà Nội. Ngoài những giờ làm việc cho xã hội, Bác sĩ thường đến chùa Quán sứ để dịch kinhgiảng Pháp cho Tăng, Ni và Phật tử. Mặc dù, lúc ấy đất nước ta đang bị chia cắt làm hai miền Nam, Bắc, Bác sĩ vẫn vun vén mối quan hệ đạo tình giữa Phật giáo miền Nam và Phật giáo miền Bắc. Một bằng chứng cụ thể là trong Đại hội Phật giáo thế giới họp tại Ấn Độ năm 1957, Bác sĩ đã vận động để cho hai phái đoàn Phật giáo miền Bắc và miền Nam nhập làm một phái đoàn Phật giáo Việt Nam và bầu Hòa thượng Huệ Quang làm trưởng đoàn.

Sau những năm tháng tận tụy phục vụ đắc lực cho đạo pháo và dân tộc, Bác sĩ đã bình thản ra đi vào 10 giờ sáng ngày 23-4-1969 (nhằm 7.3 ÂL) tại Hà Nội.

IV. MẤY CẢM NGHĨ CỦA NGƯỜI CHÉP TIỂU SỬ VỀ CUỘC ĐỜI CỦA BÁC SĨ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM.

1. Nguyên nhân gì đã đưa Bác sĩ Lê Đình Thám đến với đạo Phật?

Trong các bài viết về tiểu sử BS. Lê Đình Thám, thường thấy có nói đến một chi tiết được xem nhưnguyên nhân chính đã thu hút Bác sĩ Lên Đình Thám đến với đạo Phật. Đó là bài kệ của tổ Huệ Năng. Câu chuyện được kể như sau: Năm 1926, trong thời gian công tác tại bệnh viện Hội An (Quảng Nam), một hôm đi viếng cảnh chùa Non Nước (Đà Nẵng). Bác sĩ tình cờ thấy trên vách chùa có ghi bài kệ của tổ Huệ Năng (“Bồ đề bổn vô thọ, Minh cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạn trần ai”). Bài kệ đã đập mạnh vào tâm trí Bác sĩ, ghi một ấn tượng sâu sắc khá phai mờ. Hai năm sau(1928), khi được thuyên chuyển về làm y sĩ trưởng Viện bào chế và vi trùng học Louis Pasteur tại Huế, nhân mội hôm đi tham quan chùa Trúc Lâm, Bác sĩ đã yết kiến Hòa thượng Giác Tiên và được Hòa thượng khai ngộ cho về ý nghĩa thâm sâu của bài kệ. Từ đó, Bác sĩ phát Bồ-đề tâm, xin quy y Tam bảo và nhận Hòa thượng Giác Tiên làm bổn sư.

Chúng tôi không phủ nhận ý nghĩa thâm sâu của bài kệ của tổ Huệ Năng, cũng không phủ nhận cái ảnh hưởng có mức độ của bài kệ trong tâm hồn của Bác sĩ. Nhưng cho rằng bài kệnguyên nhân chính thúc đẩy Bác sĩ đến với đạo Phật thì chưa thỏa đáng. Chúng ta thử đặt một giả thiết ngược lại: Nếu không tình cờ đọc được bài kệ ấy trên vách chùa Non Nước, nếu không có cơ may gặp được Hòa thượng Giác Tiên giải thích cho Bác sĩ cái ý nghĩa thâm sâu của bài kệ thì Bác sĩ sẽ không đến với Phật, để trở thành một trụ cột chính của phong trào Chấn hưng Phật giáo của miền Trung, và đồng thời, của cả nước chăng? Chắc chắn một giả thiết như vậy không thể đứng vững được. Chúng tôi có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng, dù có hay không có bài kệ của tổ Huệ Năng, con đường tất yếu mà Bác sĩ phải chọn để đi là con đường đến với đạo Phật. Và để có được sự khẳng định này, chúng tôi đã căn cứ trên nhiều yếu tố cụ thể: bản thângia đình của Bác sĩ, hoàn cảnh xã hội và giai đoạn lịch sử của đất nước bấy giờ.

Đọc tiểu sử của Bác sĩ, chúng ta nhận thấy Bác sĩ đã hưởng được nhiều thuận lợi, may mắn trong đời mà ít người có được: Một dung mạo khôi ngô dễ mến, một nền học vấn quán thông cả Đông và Tây phương, một địa vị tri thức hàng đầu trong nền trật tự xã hội mới. Nhưng bên cạnh những thuận lợi quý báu ấy, những khó khăn trở ngại mà Bác sĩ phải đương đầu cũng không phải là ít: Một thân sinh làm đến chức Thượng thư, nhưng đã treo ấn từ quan, nghĩa là đang có “vấn đề”với triều đình; một người anh ruột bị bắt và bị chết trong ngục thất vì chống chế độ thực dân Pháp; một tài năng xuất chúng nhưng không được trọng dụng, vì chính quyền thực dân nghi ngờ; một lòng yêu nước nồng nàn, nhưng phải sống trong cảnh cá chậu chim lồng. Và đây chính là nỗi đau lớn nhất, niềm trăn trở nhức nhối nhất của Bác sĩ. Làm cách nào góp sức cởi cái ách thực dân quá lớn đang đè nặng trên đầu dân tộc? Các cuộc khởi nghĩa vũ trang của những người đi trước đã bị tiêu diệt, các phong trào yêu nước Cần Vương, Văn thân, Đông du đã theo nhau tan rã, nền cai trị của thực dân mỗi ngày mỗi được củng cố, Triều đình Huế chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của uy quyền quốc gia.

blankChúng ta có thể hình dung được những ngày chán chường Bác sĩ phải kéo lê cuộc đời tẻ nhạt của mình, như một cuộc lưu đày, sau khi ra trường, qua 7 tỉnh miền Trung, từ Bình Thuận đến Hà Tĩnh. Và khi từ Hà Tĩnh được thuyên chuyển về Huế, thực dân thôi “săn sóc” Bác sĩ và cuộc lưu đày 10 năm đã chấm dứt chăng? Chưa đâu! Đây chỉ là một sự thay đổi chiến thuật: Thực dân không muốn để cho Bác sĩ ở lâu ở Hà Tĩnh – một tỉnh nghèo nhất nước, nhưng cũng sản sinh ra nhiều nhà chí sĩ, cánh mạng nhất nước – là vì sợ Bác sĩ “nhiễm” nặng thêm cái tinh thần yêu nước chống ngoại xâm, nên đưa Bác sĩ về Huế - nơi cũng sản sinh không ít những nhà chí sĩ yêu nước thương nòi, nhưng cũng không ít những “thương nữ bất tri vong quốc hận”, đêm đêm trên dòng “sông Hương nước chảy lờ đờ”, cất lên những giọng ca ai oán, sầu bi làm nhụt chí nam nhi. Trong những năm đầu về Huế, vị Bác sĩ kính mến của chúng ta có lẽ cũng đã có lúc bị mê hoặc bởi những tiếng đàn, tiếng ca réo rắt, ai oán ấy. Nhưng rồi một buổi sáng Chủ nhật, Bác sĩ đã dời dòng sông Hương để đi về phái núi Ngự, tìm đến những ngôi chùa cổ rêu phong để học đạo, rồi sau đó đã xin thọ Tam qui, Ngũ giới với những vị cao tăng thạc đức. Chúng ta có thể hình dung được tiếng cười khoái trá của viên Chánh sở Mật thám Sogny khi được nhân viên báo cáo sự kiện này. Ông ta nói gì trước một tin bất ngờ như vậy? Có thể là một câu nói tương tự như thế này với cái giọng Việt Nam lơ lớ: “Đi tu, rời bỏ tiếng dàn hát trên sông Hương để đi theo tiếng chuông tiếng mõ sau núi Ngự? Tốt thôi, cứ để cho anh ta tự do đi chùa!”. Đối với viên mật thám vô cùng quỷ quyệt này, Bác sĩ lúc bấy giờ là một “anh hùng đã thấm mệt”- nói nôm na là đã “hết xài”. Nhưng đối với Bác sĩ, đây là giai đoạn khởi đầu của một cuộc đờiý nghĩa. Bác sĩ đến với Phật giáo không phải là để tìm sự thảnh thơi mà chính là để thực hiện tấm lòng yêu nước thiết tha của mình, bằng cách trở về nguồn, tìm lại những tinh coa của nền văn hóa truyền thống dân tộc, một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật, đạo của Từ biTrí tuệ, Bình đẳng và Vị tha… Qua cái nhìn chính xác và sâu sắc của Bác sĩ, đạo Phật có một giá trị nhân bản và một tiềm năng rất lớn, nếu biết khai thác và cải cách cho thích hợp với thời đại mới, thì sẽ cống hiến cho đời nhiều chất liệu quí báu để xây dựng con ngườixã hội tốt đẹp. Nắm vững chủ trương đúng đắn ấy, Bác sĩ đã tập hợp và huy động được những đồng tâm đồng chí trong giới Tăng-ni và Phật tử có tâm huyết bắt tay vào phong trào Chấn hưng Phật giáo. Và từ đó, đạo Phật Việt Nam đã có một sắc thái mới mẻ, trong sáng hơn. (Hình bên trên: tượng BS. Tâm Minh đặt tại khuôn viên chùa Từ Đàm, Huế)

2. Những yếu tố gì trong con người của Bác sĩ Lê Đình Thám đã đưa Bác sĩ thành công trong công cuộc Chấn hưng Phật giáo?

Có một lý tưởng cao đẹp đã là khó, thực hiện thành công lý tưởng cao đẹp ấy lại còn khó hơn. Hai cái khó ấy, Bác sĩ đã vượt qua không mấy khó khăn. Trước tiên, là nhờ trí tuệ thông minh vô cùng nhạy bén của Bác sĩ. Thứ đến, là có một nền học vấn sâu rộng vững chắc quán xuyết cả Đông Tây (như chúng ta đã thấy ở phần trên), cộng thêm với cái đức tính say mê tìm tòi, hiểu biết về nhiều lĩnh vực: Khoa học, triết học, văn chương, nghệ thuật,… Một sự trùng hợp ngộ nghĩnh, không mà như có chuẩn bị trước: Đức Phật thường dạy đệ tử cần phải trau dồi Ngũ minh để giúp đời: Nội minh (tinh thông giáo lý nội điển), Nhân minh (tinh thông phương pháp biện luận), Thanh minh (tinh thông ngôn ngữ), Y phương minh (tinh thông y lý để chữa bệnh), Công xảo minh (tinh thông nghề nghiệp). Trong năm cái này, Bác sĩ có đủ cả năm và đã sử dụng một cách thành thạo xuất sắc, đạt hiệu quả cao, không ai sánh kịp.

Nhưng nếu chỉ có trí tuệtài năng, thông minhkiến thức thì chưa đủ để trở thành một nhà lãnh đạo lớn nói chung, và của Phật giáo nói riêng.

Bác sĩ, có một đức tánh quý báu nhất, đã đưa Bác sĩ đến thành công, là sự quên mình vì công việc chung. Khi bắt tay vào một công việc gì, Bác sĩ tận tụy hết mình, không quản khó khăn mệt nhọc, không tiếc sức khỏe, thời gian, tiền bạc, chỉ mong sao cho công việc được viên thành. Vì không chỉ thấy có mình, nêm Bác sĩ đã dễ dàng thông cảm, hiểu thấu tâm tư, nguyện vọng, sở trường sở đoản của người khác và từ sự hiểu biết đó, dành cho họ một chỗ đứng thích nghi, một công tác thích hợp với khả năng của mỗi người, mỗi giới trong cái công trường rộng lớn của xã hội.

Chúng ta không thể không ngạc nhiênvô cùng thán phục Bác sĩ, khi thấy Bác sĩ đã động viên được không những giới đồng liêu tân học, mà cả giới cựu học thâm Nho, không những giới tưmà cả giới Tăng-già, từ các bậc đại lão Hòa thượng cho đến cháu thanh, thiếu, đồng niền, mọi người hăng hái tham gia vào phong trào Chấn hưng Phật giáo. Bác sĩ đã có một sức thu hút rất lớn, đã tập họp được các giới đồng bào đến với Phật giáo, là do Bác sĩ đã thể hiện được đức tánh Vô ngã, Vị tha.

Cuộc đời Bác sĩ là một tấm gương sáng cho Phật tử chúng ta cùng soi chung.

 

Tp. Hồ Chí Minh, ngày lễ Phật Đản

PL.2535 (28-5-1991)

Võ Đình Cường


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49733)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34624)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33443)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43915)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57052)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47559)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39416)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38471)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52931)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36594)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32236)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40463)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43476)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31446)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46705)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36203)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28692)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29228)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31883)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28817)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33359)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29126)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60976)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39760)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26670)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29661)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37364)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40083)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26832)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42649)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37275)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28283)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28892)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26391)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27166)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26182)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34627)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27799)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30472)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33279)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28562)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30062)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25486)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21842)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51286)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26719)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28618)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27701)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24346)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27454)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31923)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30182)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27697)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35436)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27437)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30004)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31767)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23013)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24177)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23013)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant