Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tam Qui

10 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10479)
Tam Qui

PHẬT HỌC THƯỜNG THỨC

Tâm Minh Lê Đình Thám

TAM QUI

Một người phát nguyện tín ngưỡng đạo Phật, xin thọ phép Tam quy trước Tam bảo thì được gọi là tín đồ đạo Phật. Tam quyquy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Do Phật, Pháp, Tăng dìu dắt chúng sanh ra khỏi cái khổ luân hồi, nên chúng sanh rất quý trọng và tôn làm Tam bảo.

Pháp giới tánh duyên khởi ra thế giới, chúng sanh từ vô lượng, vô số kiếp về trước. Chúng sanh thì sanh, trụ, dị, diệt, liên tục mãi mãi. Thế giới thì thành, trụ, hoại, không, cũng liên tục mãi mãi, không lúc nào dừng nghỉ, như bánh xe xoay tròn nên gọi là luân hồi.

Chúng sanh mới sanh ra thì gọi là sanh, tiếp tục tồn tại thì gọi là trụ, chuyển biến không ngừng thì gọi là dị và cuối cùng phải chết thì gọi là diệt. Thế giới khi còn ở thể hơi vô hình thì gọi là không, khi bắt đầu đọng lại, cho đến thành một khối đất cứng, có cây, có cỏ, có người, có vật thì gọi là thành, khi tiếp tục tồn tại không có sự thay đổi lớn lắm thì gọi là trụ, khi bắt đầu tan rã không có người, vật và cũng không còn cây cối thì gọi là hoại, và khi trở lại biến ra hơi thì gọi là không. Thời gian của một thế giới thành rồi trụ, trụ rồi hoại, hoại rồi không thì gọi là một kiếp. Mỗi thế giới có một trời riêng của thế giới ấy, phạm vi giáo hóa của một Đức Phật, có hàng ngàn triệu mặt trời, tức là hàng ngàn triệu thế giới, gồm lại thành một Phật sát. Vô lượng, vô biên Phật sát kết hợp với nhau thành một tầng và độ hai mươi tầng như thế, chồng lên nhau thì thành một hoa tạng thế giới và các hoa tạng thế giới cách xa nhau đến mức mà con người không thể nào tưởng tượng nổi.

Trong hàng triệu thế giới của một Phật sát, cái thì đương thành, cái thì đương trụ, cái thì đương hoại, cái thì đã thành không, nên không thể nói vũ trụ bắt đầu từ đâu và lúc nào thì diệt, mặc dầu mỗi thế giới đều có thành, trụ, hoại, không. Từ cõi Tứ thiền trở lên, thì không bị sự thành, trụ, hoại, không của thế giới chi phối, nên chúng sanh ở các cõi đó, có thể sống rất nhiều kiếp.

Chúng sanh luân hồi mãi mãi trong vô lượng kiếp, chịu nhiều đau khổ, nên có người đã giác ngộ, muốn tìm cách ra khỏi sống, chết. Do lòng trông mong ấy của chúng sanh, nhiều ngoại đạo, tà giáo đã xuất hiện, lừa gạt chúng sanh, như cho trẻ con cái bánh vẽ, hoặc bảo rằng, lên thiên đường thì sống mãi không chết, làm cho chúng sanh chìm đắm mãi trong bể khổ. Trong những người tìm đạo giải thoát, có một số người suy xét nơi tâm, nơi cảnh hiện tiền, phát minh ra đạo lý nhân duyên, rồi cố gắng tu tập, đi đến diệt trừ ngã chấp, ra khỏi luân hồi, đó là các vị Độc giác. Vô lượng vô số kiếp về sau, có một vị Độc giác phát lòng từ bi rộng lớn, không nỡ để cho chúngsanh bị mãi cái khổ luân hồi, nên kiên trì hiện ra nhiều thân, trong nhiều loài mà hóa độ chúng sanh. Do tâm từ bi hóa độ ấy, vị Độc giác này, càng ngày càng đi sâu vào bản tánh của mọi sự, mọi vật, đi đến đầy đủ công đức trí tuệ, giác ngộ được Pháp giới tánh, phát hiện rồi nhập một với Pháp giới tánhthành Phật đạo, đó là Đức Phật Uy Âm vương, Đức Phật đàu tiên trong vũ trụ vô cùng tận. Nhờ công đức hóa độ của Đức Phật Uy Âm Vương, vô lượng vô số chúng sanh đã phát Bồ-đề tâm, tu theo Phật pháp, phổ độ chúng sanh và thành vô lượng, vô số Phật. Như thế, tất cả chư Phật đều do tu tập mà thành, mặc dầu pháp giới tánh sẵn có, không hề thêm bớt.

Chư Phật giác ngộgiác ngộ cái mê lầm của chúng sanh, chúng sanh mê lầmmê lầm cái giác ngộ của Phật.

Thật tế, chúng sanh chỉ là những biểu hiện của pháp giới tánh, chỉ do pháp giới tánh trùng trùng duyên khởi mà có. Sẵn có pháp giới tánh, chúng sanh không biết trực nhận, lại lầm nhận cái thân thường thường thay đổi, cái tâm thường thường chuyển biến là mình, lại lầm chấp có cái ta thật, có ngoại vật thật, nên phải chịu sống rồi chết, chết rồi sống, luân hồi mãi mãi trong lục đạo. Cái mê lầm như thế, thì gọi là vô minh, chỉ khi nào không còn ngã chấp, pháp chấp, giác ngộ vô minh, và dứt sạch vô minh, thì mới nhập một được với pháp giới tánh, tức là bản lai tự tánh. Khi nhập một được với pháp giới tánh, thì được gọi là Như Lai, là vì bản tánh chân như, theo duyên phân biệt của chúng sanh, mà lượng ra vô lượng thân thể hóa độ, nên gọi là Như Lai. Các đức Như Lai đều bình đẳng, không có sai khác, nhưng cái duyên của các Ngài đối với chúng sanh, lại theo tâm phân biệt của chúng sanh mà có sai khác. Các đức Như Lai hiện ra vô số thân, làm nhiều việc lợi ích cho chúng sanh để kết duyên. Khi nhân duyên đã thành thục, đối với chúng sanh trong hàng ngàn triệu thế giới của một Phật sát, thì các đức Như Lai lại hiện ra thân Phật trong tất cả các thế giới ấy để hóa độ.

Đức giáo chủ của chúng tađức Phật Thích-ca Mâu-ni. Ngài là một ứng thân trong vô lượng vô biên ứng thân của đức Phật Tỳ-lô-xá-na (Vairo-cana). Ngài hiện ra thân người trong cõi này, vớiđủ các tướng phàm phu, rồi thị hiện xuất gia cầu đạo, thị hiện tự mình tu tập, khi nhận thấy các ngoại đạo không phải là đạo giải thoátcuối cùng, ngồi dưới cây Bồ-đề, tự mình suy xét, dứt sạch vô minhthành Phật đạo. Sau khi thành Phật, đức Phật Thích-ca Mâu-ni chu du nhiền nơi, thuyết pháp độ sanh, đem những phương pháp tu tập để tự giải thoát, để tự giác, giác tha, đi đến giác hạnh viên mãn, mà dạy bảo cho các hàng đệ tử.

Sau khi Phật nhập diệt, các đại đệ tử của Phật kết tập những lời Phật dạy, thành các bộ kinh, các vị còn kết tập riêng những giới luật của Phật đã dạy, thành các bộ luật. Lại trong khi Phật tại thế và nhất là sau khi Phật nhập diệt, nhiều vị đại đệ tử của Phật, đã có những trước tác quan trọng hoặc phân tích, hoặc quy nạp, hoặc hệ thống hóa những lời Phật dạy, để giúp đỡ người đời học hỏi đạo lý của Phật, đó là những bộ luận. Các bộ kinh, bộ luật, bộ luận là ba tạng kinh điển của Phật giáo.

Trong lúc Phật tại thế, các đệ tử Phật, xuất gia cầu đạo, đều kết hợp lại thành những chúng, sống theo phép lục hòa là thân hòa đồn trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, và lợi hòa đồng quân. Những chúng lục hòa như thế thì gọi là Tăng.

Theo quan niệm phổ thông thì đức Phật Thích-ca Mâu-niPhật bảo, ba tạng kinh điển là Pháp bảo và các chúng xuất giaTăng bảo. Tăng bảo như thế, thì gọi là trú trì Tam bảo. Những người theo đạo Phật quy y Tam bảo, chủ yếu là quy y với trú trì Tam bảo.

Ngoài quy y với trú trì Tam bảo ra, tín đồ các pháp Đại thừa Phật giáo, còn quy y với thập phương Thường trụ Tam bảo, nghĩa là quy y với tất cả chư Phật trong mười phương, chứ không phải chỉ quy y với đức BổnThích-ca Mâu-ni Phật; Quy y với Đệ nhất nghĩa đế, tức là với đạo lý vi diệu nhất của Phật, chứ không phải chỉ quy y với Tam tạng kinh điển; quy y với vô lượng chúng Bồ-tát trong mười phương, chứ không phải chỉ quy y với trú trụ trì Tăng bảo hiện tiền.

Vẫn biết, chư Phật là đồng thể, quy y với một Đức Phật, tức là quy y với tất cả chư Phật, nhưng nếu chỉ quy y với đức Phật Thích-ca Mâu-ni, là một ứng thân của đức Phật Lô-xá-na, thì khó nhận được Phật là thường trụ, luôn hiện tiền, do đó, cũng không quan niệm đúng đắn được quả vị tối thượng của chư Phật.

Lại Tam tạng kinh điển tuy nhiều, nhưng phương diện của Phật và của chư Tổ, theo duyên cũng có sai khác. Có kinh điển chỉ dạy về Duyên Giác thừa, Thanh Văn thừa, nghĩa lý không rốt ráo và chưa phải là con đường tu hành thành Phật đạo. Về các kinh điển Đại thừa, nếu chấp chữ nghĩa trong kinh, mà không nhận rõ ý tứ, thì cũng chẳng khác gì, nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng mà thôi. Vì thế, người tu hành theo phép Đại thừa, cần quy y với đạo lý chân thật, mà Phật và chư Tổ đã chỉ trong các kinh điển, nghĩa là quy y với Đệ nhất nghĩa đế, đưa đến trực nhận pháp giới tánh, tức là tâm tánh, tức là bảo lai tự tánh.

Trong đạo Phật chúng ta hiện nay, chỉ có Thanh Văn tăng, vì theo căn cơ của loài người trong cõi này, chỉ có Thanh Văn tăng mới duy trì Phật pháp được lâu dài, nhưng không phải vì thế, mà không có chư vị Thập phương Bồ-tát, thể theo đại nguyện đại bi, luôn luôn hiện thân trong thế giới chúng ta, để hóa độ quần sanh. Chính các vị đã hiện thân làm các vị Tổ sư, uốn nắn những lệch lạc trong Phật giáo, sáng tác nhiều bộ luận quý báu, chẳng những làm sáng tỏ thêm đạo lý của Phật dạy, mà lắm khi còn phát triển và phát minh những phương pháp tu hành thích hợp với thời cơ làm cho Phật giáo được chấn hưng, san những thời kỳ bị suy sụp. Vì thế, ngoài trụ trì tăng, tín đồ đạo Phật còn quy y với thập phương Bồ-tát tăng là Thường trụ Tăng bảo.

Những tín đồ đạo Phật đã phát Bồ-đề-tâm, nên còn biết trụ trì Tam bảo cũng không ra ngoài pháp giới tánh, tức là bản lai tự tánh của mình, thế có nghĩa là tuy có mình quy y Tam bảo, nhưng sự thật, mình cũng là pháp giới tánh, Tam bảo cũng là pháp giới tánh, không có Tam bảo ra ngoài tâm tánh của mình và cũng không có tâm mình ra ngoài Tam bảo.

Tự tánh bản lai khôngnhiễm ô, không có vô minh, đó là Phật bảo.

Tự tính bình đẳng, không có sai khác, tuy biến hiện ra tất cả các pháp thế gianxuất thế gian, nhưng tất cả các pháp đó, đồng thời đều chỉ là tự tánh, đó là Pháp bảo.

Tự tínhdiệu dụng vô lượng vô biên, có hằng sa tính công đức, hiện ra vô số thân, làm vô số Phật sự, nhưng sự thật không được một cái gì cả, đó là Tăng bảo.

Tam bảo trong tự tánh như thế là Tự tánh Tam bảo.

Người tu hành cần quy y với tự tánh Tam bảo, để khỏi nhận lầm thật có Tam bảo ra ngoài tâm tánh.

Quy y, theo tiếng Phạn là “Na-mô” nghĩa là quay về mà nương dựa. Chúngsanh mê lầm như đứa con dại đi lạc đường. Đứa con ấy, nghe theo tiếng gọi của cha mẹ, thì quay về nương dựa, đi theo cha mẹ để khỏi sự lầm lạc. Chúng sanh trong mê lầm, được nghe tiếng gọi của Tam bảo, biết quay vè nương dựa với Tam bảo, đi theo Tam bảo trên con đường giải thoát, thì mới đi ngược lại được với dòng mê và ra khỏi luân hồi.

Vậy quy y không chỉ là một nghi lễ, mà phải là một dịp pháp nguyện trước Tam bảo, cương quyết cải tà quy chánh, nói theo một cách khác là cương quyết đi theo Tam bảo, chứ không lạc vào con đường khác.

1. Quy y Phật, vĩnh bất quy y thên, thần, quỷ, vật: Nghĩa là quy y với Phật, nguyện vĩnh viễn không quy y với Trời, với Thần, với Quỷ, với Vật. Ngoại đạo thường mê tín theo các ông Trời, ông Thần, loài Ma quỷ và các loài vật thành tinh, như cây, đá, cọp, rắn v.v. Tín đồ đạo Phật biết trời, thần, quỷ, vật, chỉ là những loài chungs anh trong vòng luân hồi, nên cương quyết không theo họ và chỉ quy y theo Phật để được giải thoát.

Có người nói: “Cha cũng kín, mẹ cũng vái” hoặc “Phật thì xa, bản nha thì gần” hoặc “Phật cũng kính, Trời cũng sợ”, nói như thế là lẫn lộn giác ngộ với mê lầm, Phật với chúng sanh, Chánh pháp với ngoại đạo.

Nên nhận rõ rằng những loài trời, thần, quỷ, vật đều mê lầm như chúng ta, đều còn bị ràng buộc trong bản nghiệp, nên không thể hiểu biết chúng ta và thường cũng không có quan hệ gì với chúng ta.

Song tư tưởng của chúng ta có một sức mạnh phi thường, khi tư tưởng nhiều người tập trung tin tưởng, thì lại có thể tạo ra những trời, thần, quyrm vật, có một số tác dụng, nhưng, trời, thần, quỷ, vật đó sự thật chỉ là ảo tưởng mà thôi.

Ngoài ra, khi tu hành đã khá, bắt đàu chuyern nghiệp người sang nghiệp khác, thì chúng ta có thể cảm thông với những loài khác được, nhưng sự cảm thông đó vẫn không có lợi ích gì cả, vì những chúng sanh ấy, tuy khác loài người, vẫn còn là chúng sanh, do đó, trong lúc cảm thông với nhau, họ rất có thể lôi kéo người tu hành theo các ngoại đạo.

2. Quy y Pháp, vĩnh bất quy y ngoại đạo, tà giáo: Nghĩa là quy y với Phật pháp, nguyện vĩnh viễn không quy y với ngoại đạo, tà giáo. Ngoại đạo là những đường lối tu hành như đạo Nho, đạo Lão, v.v. không đưa đến kết quả giải thoát. Tà giáo là những lời dạy bảo sai lầm, trái với nhân quả, tăng trưởng các nghiệp ác.

Tín đồ đạo Phật, chỉ nương theo Phật pháp mà thôi, không nên xem đạo Phật cũng là một đạo như các đạo khác, không nên tìm xem kinh điển của các đạo khác, khi chưa hiểu Phật pháp, chỉ khi nào có đủ trí tuệ, phân biệt chánh tà, thì mới nên xem qua các kinh điển ngoại đạo, để chỉ trích những sai lầmbảo vệ Chánh pháp.

3. Quy y Tăng, vĩnh bất quy y tổn hữu, ác đảng: Nghĩa là quy y với tăng chúng đạo Phật, nguyện vĩnh viễn không đi theo tổn hữu và ác đảng. Tăng chúng đạo Phật sống theo phép lục hòa, là thiện hữu, là thiện tri thức của chúng sanh, còn tổn hữu là một người hoặc những người xui giục làm những điều tổn thương đến đức hạnh, đến thiện niệm và chánh niệm. Ác đảng là những bè phái gây tổn hại cho đa số người, như bè lũ phản quốc, áp bức giết hại nhân dân, phục vụ cho quyền lợi bọn xâm lược nước ngoài. Tín đồ Phật giáo chỉ quy y với Tam bảo, quyết không theo những tổn hữu ác đảng, dù họ có khoác áo người tu hành.

Quy y Tam bảo là ba cái nguyện mà tín đồ đạo Phật cần phải giữ trọn, thì mới xứng đáng là tín đồ đạo Phật, vì thế, không nên truyền thọ Tam quy cho những người chưa hiểu rõ và chưa phát nguyện. Quy y lúc còn nhỏ tuổi, chỉ là kết duyên, không có tác dụng xác thực, khi đã lớn hiểu rõ và biết phát nguyện, thì nên phát nguyện trước Tam bảo, quy y theo đúng Chánh pháp. Tín đồ đạo Phật chúng ta còn tụng Tam tự quy:

- Tự quy y Phật đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.

- Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.

- Tự quy y Tăng, đương nguyeengj chúng sanh thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.

Nghĩa là:

- Tự mình quy y Phật, thì nên nguyện cho chúng sanh thấu rõ đạo Phật, phát lòng Bồ-đề vô lượng.

- Tự mình quy y Pháp, thì nên nguyện cho chúng sanh đi sâu vào đạo lý của kinh điển, trí tuệ rộng lớn như biển.

- Tự mình quy y Tăng thì nên nguyện cho chúng sanh có khả năng dìu dắt đại chúng tu tập, tổ chức đại chúng theo phép lục hòa, được vô ngại tự tại.

Ba câu này biểu hiện sự nhận rõ về Tam bảolòng từ bi, mong cho chúng sanh cũng hiểu rõ như thế và thiết thực học tập tu trì để cùng góp sức xây dựng Tam bảo.

Phát nguyện quy y Tam bảolợi ích rất lớn, vì quy y Tam bảo, tức là cải tà quy chánh, bỏ dữ, do đó, quyết định không đọa vào ba đường dữ. Điều cốt yếu là phải phát nguyện thành thực, một lòng tin tưởng Tam bảo, không tin những ngoại đạo tà giáo, những trời, thần, quỷ, vật, cả trong những lúc bị hoạn nạn, bị khó khăn, thì mới được sự lợi ích của việc quy y Tam bảo.

Trong nước ta, thường có phong tục thờ cúng tổ tiên, tín đồ đạo Phật hiểu rằng, ông, bà, cha, mẹ, thân bằng quyến thuộc, khi đã lâm chung, thì trừ khi được về Tịnh độ, tất cả phải luân hồi trong lục đạo, nên không thể có cái hồn về hưởng các lễ tiến cúng, vì thế, tín đồ chỉ xem ngày kỵ lạp là những ngày kỷ niệm, và trong những ngày ấy, thường làm những việc thiệntụng kinh niệm Phật, để hồi hướng cho vong linh sớm giác ngộ tu theo đạo Phậtvãng sinh Tịnh độ.

Xin nguyện cho tất cả chúng sanh phát tâm thiết thực quy y Tam bảo, tinh tấn tu hành, cùng thành Phật đạo.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49779)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34656)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33470)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43961)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57118)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47595)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39445)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38496)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52982)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36625)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32263)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40514)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43516)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31481)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46738)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36230)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28734)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29273)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31923)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28863)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33401)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29172)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61028)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39812)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26709)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29702)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37418)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40125)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26873)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42705)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37307)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28322)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26417)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27198)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26209)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34719)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27834)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30501)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33323)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28588)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30102)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25504)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21868)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51349)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26760)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28643)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27737)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24377)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27492)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31977)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30225)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27737)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35489)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27478)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30044)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31809)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23054)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24208)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23055)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant