Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9496)
Phần 2


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 2

Đó là một cái đoạn quí vị thấy nó có hai phần: Sự và Lý. Sự là nói rằng mỗi ông Trưởng giả đem lọng báu của mình tới hiến dâng lên Phật. Mà đây tới 500 ông. Tức là có tới 500 cái lọng. Mỗi ông dâng cái lọng rồi thì do thần lực của Phật hóa hiện thành một cái thôi. 500 cái thành có một cái. Mà khi lọng báu thành một rồi thì trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, núi, sông, đất liền gì gì, đều thấy hiện trong đó hết, phải không? Cho tới hình ảnh cung trời, cũng các vị thần, cho tới 10 phương chư Phật nói pháp ở cõi nước xa mấy cũng hiện trong đó. Thì như vậy mới thấy, về phần sự thì bao nhiêu lọng báu nhỏ, Phật dùng thần lực biến thành cái lọng báu lớn. Thành lộng báu lớn rồi thì cả Tam thiên đại thiên thế giới này có cái gì đó đều hiện đủ ra hết. Đó là thấy đủ hết không thiếu. Chẵng những trong tam thiên đại thiên thế giới mà cả mười phương chư Phật ở các cõi nước khác xa nói pháp cho chúng sinh nghe. Nhìn trong đó cũng thấy luôn. Đó là nói về sự. 

Còn nói về lý, trong bản kinh này đặt trọng là Tâm. Như hồi nãy tôi nói tâm tịnh thì độ tịnh. Bao nhiêu cái lọng riêng của các ông Trưởng giả đó dụ cho tâm riêng. Mà khi tâm nó còn riêng tư thì lúc đó nó không có cái diệu dụng. Khi tâm nó không có cái diệu dụng. Khi tâm nó đã họp nhất rồi, lúc đó là thanh tịnh. Thanh tịnh thì mười phương cõi Phật cho tới trong thế giới này, có cái gì cũng hiện sáng ở trong đó hết. Cho nên nói tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Khi tâm mình thanh tịnh rồi, tất cả những cái gì ở đâu, ở xa mấy nó đều hiện vô đó. như đây là một bằng chứng cụ thể chớ không phải mình nói một cách xa vời. 

Thí dụ: Như đức Phật, Ngài tu dưới cội Bồ đề. Khi tâm Ngài hoàn toàn thanh tịnh rồi, Ngài nhìn ra, Ngài thấy xa như là 10 phương các cáu tí mù tí mú gì, Ngài cũng thấy hết. Cho nên. Cho nên Ngài mới nói hằng hà sa số thế giới đó. Thế giới nhiều như cát sông Hằng. Mà lúc đó có cái phương tiện nào để Ngài thấy không? Hay tâm Ngài tịnh rồi Ngài thấy. Vậy thì do tâm Ngài thanh tịnh cho nên Ngài thấy vô số thế giới bên ngoài. Cũng do tâm Ngài tịnh rồi, Ngài thấy những vi trùng tí ti. Như vậy rõ ràng tâm tịnh rồi thì tất cả đều hiện, thấy được hết. Đó là những đều thực chớ không phải tưởng tượng. Bởi vậy chúng ta tu không có mơ ước thần thông mà chỉ phải tiêu diệt những phiền não để cho tâm thanh tịnh. Tâm mình thanh tịnh thì mọi cảnh bên ngoài, những gì cần biết thì liền thấy, liền biết, không nghi ngờ nữa. Đó, bởi vậy chủ yếu của đạo phật là đi tới cái gốc tâm thanh tịnh thì mới thành cõi Phật thanh tịnh. Chớ mình mơ ước cõi Phật mà lúc đó mình không có tu, không có điều phục cái tâm mình để thanh tịnh, thì mơ ước chỉ là viễn vông. 

Khi ấy tất cả đại chúng xem thấy thần lực của Phật liền tán thán là điều chưa từng có. Chấp tay lễ Phật, chiêm ngưỡng dung nhan của Phật. Con mắt không có chớp. Ông Trưởng giả Bảo Tích

Con ông Trưởng giả thì nghe không có được chút nào hết. 

Trưởng giả Bảo Tích liền ở trước Phật dùng bài tụng để tán thán rằng: 

Đây là bài tụng của Ông. 

Con mắt rộng đẹp như hoa sen

Tịnh, Tu, Quảng ba chữ. Tịnh là Tập, Tu là sửa sang. Quảng là rộng. Nhưng mà mình nói con mắt đẹp đẽ là đủ rồi. 

Con mắt đẹp đẽ như hoa sen

Tâm trong sạch đã qua hết các thiền định

Đã lâu chứa chất nghiệp thanh tịnh

Xưng là vô lượng hay khen là vô lượng

Dẫn đường cho chúng để được yên lặng. 

Cho nên con kính lễ

Bốn câu này là giải thích cái gì? Là Ngài tán thán Phật. 

Câu thứ nhất: là tán thán về sắc thân của Phật nó đẹp đẽ. Nhưng mà trên đây là tán thán con mắt người khác. Bởi vì quí vị nhớ, người thông minh người ta nhìn cho mắt, họ thấy làm sao. Nó trong và sáng phải không? Con mắt trong sáng. Còn người ít thông minh thì nhìn con mắt thấy nó làm sao. Nó đục đục, nó lờ đờ, vậy thôi. Chớ nó không trong không sáng. Vì Phật là giác ngộ cho nên phần trí tuệbiểu lộ ở con mắt. Con mắt trong mà sáng. Đó ở đây tán thán con mắt Phật. Tức là tán thán về hình tướng

Rồi kế đó, câu thứ hai: là tán thán tâm của Ngài. Bởi vì tâm của Ngài nó đã hoàn toàn thanh tịnh, cho nên Ngai qua hết các thiền định. Tại sao tâm thanh tịnh lại qua các thiền định? Bây giờ chúng ta ngồi thiền để làm gì? Để hàng phục tâm. Và để gì nữa? An trụ tâm. Mà nếu tâm chúng ta đã hàng phục, đã an trụ rồi thì ngồi thiền làm chi nữa. Cho nên nói tâm Ngài đã thanh tịnh. Cho nên Ngài đã qua hết các thiền định. Đó là tán thán về tâm của Ngài. 

Đây câu thứ ba là tán thán cái nghiệp của Ngài. Ngài đã lâu rồi, Ngài tích lũy nghiệp thanh tịnh. Cái nghiệp là nghiệp thanh tịnh. Nó được vô lượng

Rồi câu thứ tư là tán thán về cái gì? Là giáo hóa. Dẫn đường chúng sinh đi đến chỗ tịch tịnh. Cho nên con đảnh lễ Ngài. 

Như vậy chỉ có bốn câu thôi mà chúng ta thấy tán thán đủ. Nào là tán thán thân, tán thán tâm, tán thán cái nghiệp và tán thán luôn cả sự giáo hóa, hướng dẫn. 

Rồi bốn câu kế: 

Đã thấy đại thánh dùng thần biến

Khắp hiện mười phương vô lượn cõi. 

Trong ấy chư Phật diễn nói pháp, 

Khi ấy tất cả phải thấy nghe. 

Chữ “ư thị” là khi ấy. Nhớ ư thị là khi ấy nha. Bốn câu này là tán thán thần lực của Phật. Khi Ngài dùng thần lực để họp các lọng thành một cái đó. Khi họp thành một cái rồi thì mười phương cõi nước vô lượng đều thể hiện chư Phật ở trong mười phương nói pháp... Tất cả đều nhìn thấy sẵn ở trong lọng hết. Khi ấy nhìn cái lọng đều thấy sẵn hết. đó là tán thán thần lực của Phật. 

Cái sức pháp lực của đấng pháp vương siêu vượt cả quần sanh

Thường dùng pháp thí, tài thí mà thí cho tất cả. 

Hay khéo phân biệt tướng của các pháp. 

Nơi nghĩa đệ nhất nó không động. 

Đến bốn câu này là tán thán Phật khéo nói pháp. Ngài là đấng pháp vương dùng sức pháp của Ngài, khéo nói để dẫn dắt hay là vượt hơn tất cả mọi chúng sinh. Ngài thường dùng cả tài thípháp thí để mà lợi ích cho mọi người, rồi Ngài lại khéo phân biệt tướng của các pháp. Tuy rằng khéo phân biệt tướng của các pháp mà đối với nghĩa đệ nhất không có động. 

Thường thường khi phân biệt thì động hay không động? Phân biệt thì động. Mà tại sao Ngài phân biệt pháp tướng mà nghĩa đệ nhất không động. Như bây giờ tôi nói, tôi ví dụ như cái nhà. Bây giờ tôi phân tích cái nhà. Cái nhà này nó không tự có, mà nó do gạch, do xi măng, do cát, do nước, rồi do tôn, do gỗ... do những cái đó họp lại thành cái nhà. Phân tích như vậy thì cái nhà không thực có. Bởi nhà không thực có nên cái nhà này tự tánh là không, phải không? Tôi phân tích như vậy đó, nó có động tới tự tánh không hay không? Đối với tự tánh khôngbị động không? Như vậy thì phân tích để cho người ta thấy rõ cái nhà không có tự tính. Không có tự tính đó là thấy tánh không. chớ không phải do phân tích đó mà động cái tánh không. Mà tánh không tức là đệ nhất nghĩa
Đã đối với các pháp được tự tại
Thế nên con đảnh lễ pháp vương này. 
Hai câu này Ngài tán thán là Phật đã được tự tại đối với các pháp. Cho nên Ngài đảnh lễ đấng pháp vương
Nói pháp chẳng có cũng chẳng không. 
Do nhân duyên cho nên các pháp sanh. 
Vô ngã, vô tạo, vô thọ giả. 
mà nghiệp thiện ác cũng không mất. 

Câu này là khen ngợi Phật nói pháp. Cái pháp Phật nói nó không thuộc về có cũng không thuộc về không. Vì sao không thuộc có cũng không thuộc không. Vì do duyên cho nên các pháp sanh. Bởi nhân duyên các pháp sanh cho nên không phải thật có cũng không phải thật không. rồi đến vô ngã không tạo tác, không có thọ giả mà nghiệp thiện ác không mất. Đó, các pháp Phật nói nó khéo léo như vậy. 

Bốn câu này dễ hiểu không? Nói rằng do nhân duyên nên pháp chẳng phải có cũng chẳng phải không. Bây giờ dùng cái thí dụ nào xa xôi thì khó hiểu. Bây giờ tôi dùng cái thí dụ cụ thể nhất. Thí dụ như bàn tay của tôi, khi mình xòe 5 ngón ra, rồi nắm lại, thì gọi là gì? Là nắm tay. Nắm tay này tự có hay là do nhân duyên hợp. Như vậy nắm tay này có là do nhân duyên hợp, phải không? Trước khi năm ngón chưa co lại thì có nắm tay không? Bây giờ, nếu trong khi co lại, rồi buông ra thì nắm tay còn không? Như vậy trong khi năm ngón tay co thì tạm gọi là nắm tay. Nắm tay nguyên trước không, sau không. Trong khi co lại thì tạm có, phải không? Trước không, sau không. Đó thì nói nó như là không nhưng mà khi co lại tạm có thì nó không phải là không. Như vậy khi chúng ta co năm ngón lại rồi thì tạm gọi là nắm tay. Nhưng bây giờ nếu phân tích, ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp, ngón út, từng ngón thì kiếm nắm tay có không? Cũng không. Như vậy cái thể nắm tay nó là không. Nhân duyên hợp thì tạm có. Như vậy nói nắm tay là có hay là không? Như vậy nói có nói không đều không được. Mà nói nó phải sao? Chẳng phải có mà cũng chẳng phải không, phải không? Chẳng phải có, vì trước không có, sau không có. Duyên hợp phân tích ra cũng không thấy thật nắm tay. Không có tự thể nắm tay nên nói chẳng phải có, phải không. Nhưng khi duyên hợp thì tạm thấy có nắm tay, thì không phải không. 

Như vậy thì pháp Phật nói lý nhân duyên nó như vậy. Cái gì mà hiện có đây đều do nhân duyên. Do nhân duyên thì không phải thật có mà cũng không phải thật không. không phải thật có không phải thật không thì nó làm sao? Nó có như huyễn như hóa phải không. Như vậy thì cái có đó là hư dối không thật. Mà bây giờ mình có chịu nó không thật không? Chịu không? Đúng thấy được cái lý nhân duyên thì các pháp không thật. Mà thấy lý nhân duyên ngu hay là trí. Ngu hay trí? Là trí. Còn không thấy đúng lý nhân duyên đó là ngu phải không? Mà bây giờ các pháp do duyên hợp là không thật. Mà mình thấy thật là mình làm sao? Vậy mà mấy chú có chịu ngu đâu, phải không? Cứ tưởng mình thông minh lắm phải không? Bởi vì do nhân duyên hợp thì nó không phải thật có mà cũng không phải thật không. Bây giờ mình nói nó thật có, là đã ngu rồi phải không? Đó là không thấy được lý nhân duyên. Như vậy cho nên cái pháp của Phật nói nó rất là khó hiểu vì nó trái với cái ngu của phàm phu. Tại mình ngu nên mình khó hiểu phải không? Chớ nếu mình thông minh như các vị Bồ Tát nghe cái hiểu liền. Đó là cái thứ nhất. 

Đến cái khó thứ hai nữa nè! Cái pháp của Ngài nói là vô ngã. Tức là không có ta, không có người tạo tác, cũng không có người thọ nhận. Mà cái nghiệp thiện ác không mất đó, thì thường thường nói, bây giờ mình hay nói với nhau làm sao. Mình làm lành thì đời sau hưởng phước lành, phải không? Mình đời này làm lành thì đời sau thì đời sau hưởng phước lành. Như vậy đời này mình làm lành, đời sau hưởng phước lành thì dễ hiểu quá. Như vậy có mình đời này làm, rồi cũng có mình đời sau hưởng, phải không? Nhưng mà Phật nói mình không thật. Vô ngã là đâu có ta thật, không có ta thật thì làm đều lành rồi đời sau ai hưởng. Mà không có ta thật thì ai làm lành. Không có người làm cũng không có người hưởng mà tại sao cái nghiệp báo không mất. Không làm không hưởng tức là nghiệp báo mất tiêu chứ gì, phải không? Nói như vậy thì thật là khó hiểu. 

Bây giờ tôi thí dụ gần nhất. Thí dụ như bây giờ bản thân mình hiện tại đây, cái gì là mình. Mấy chú chỉ giùm tôi đi. Cái gì là ta? Cái ta bây giờ thật là khó mà chỉ. Ngay thân này chỉ cái gì là ta, chỉ không được. Nhưng mà lúc nào mình cũng nghĩ mình có cái ta làm chủ cái thân này. Nhưng bây giờ cái ta là cái gì. Mà thật là mình làm chủ thân này chưa. Đó là một cái. 

Bây giờ tôi hỏi mấy chú, tại sao mấy chú ăn? Tại mình muốn ăn hai tại bao tử trống nó đòi. Nếu mà nói tại mình muốn ăn đó thì có cái món nào mà mình thích nhất, rồi khi đó có ai cho mình ăn cơm no đầy, rồi người khác đem cái món mình thích nhất ra, mình có muốn ăn không? Nếu tại mình thì cái gì mình thích thì mình phải ăn. Nhưng bây giờ cái bao tử đầy rồi thì có thích thì thích, chớ nuốt không vô phải không? Như vậy thì mình muốn ăn hay bao tử muốn. Đó, như vậy mới thấy rõ ràng rằng cái bao tủ khi nó trống, nó đòi hỏi thì mình muốn ăn phải không? Như vậy mình muốn hay bao tử muốn? Nhưng mà lúc nào cũng nói mình hà. Tôi muốn ăn. Chớ sự thực ra, do bao tử trống. Như vậy chúng ta mới thấy khi chúng ta ăn, những thức ăn vô, chúng ta có muốn nó chế biến ra máu, ra gì gì đó, bằng cách nào không? Cứ dồn đại vô đó rồi tự nó làm sao nó làm cũng không biết nữa. 

Bây giờ tôi thí dụ. Thí dụ như bây giờ ở đây có ông trụ trì hay ông tri sự, ngoài kia có một số con nít nó vô nó xé rào. Nó vô bẻ “Điều” hay làm gì đó. Rồi ông tri sự thấy, tức là làm sao? Mới điều hành chúng ra đuổi nó ra phải không? Điều hành chúng chạy ra đuổi. Thấy nó xé rào của mình, mình đuổi nó ra. Như vậy mình là chủ, ai xâm phạm mình liền biết. Biết thì mình liền đuổi ra. 

Bây giờ đây cơ thể mình, mấy con vi trùng ở ngoài nó xâm phạm mình có hay không? Rồi mình có điều động các vi trùng của mình lại để diệt nó không? Không biết gì hết trơn. Ở trỏng nó làm sao làm, mình chớ có biết, phải không? Rồi ăn đồ ăn vô nó chế biến làm sao mình chớ có hay. Chớ phải chi ăn vô rồi mình ấn cái nút nào đó, để cho nó được tiết chất gì. Ấn cái nút gì để tiết chất gì, để tiêu hóa, rồi nó bổ dưỡng. Như vậy mình mới là chủ chớ, phải không? Cái này nó làm cái gì mình không biết hết. Rồi tới chừng nó ra thì hay vậy thôi. Rồi nó thành cái gì thì thành. Như vậy chủ ở chỗ nào chớ. Có chủ không? Mà không chủ thì làm sao có ta. Ngã là chú đó. 

Tuy nó không chủ như vậy mà nếu mấy chú cứ uống rượu hoài thì lâu nó có ghiền không? Ghiền không? Hút thuốc mãi thì có ghiền không. Tuy không chủ mà nghiệp không mất phải không? Không chủ mà nghiệp không mất. Nghĩa là làm cái nghiệp gì thì kết quả nó đi tới đó. 

Như vậy mới thấy rõ rằng không có ngã, không tạo tác, không thọ giả mà nghiệp không mất. Đó là một cái đặc biệt. Mình lâu nay mình si mê, mình cứ tưởng mình là chủ. Khi mình tưởng mình là chủ đó thì thực ra cái tưởng tượng thôi. Cái giả tưởng chớ không có thực. Vì thực ra con người mình, mình đâu biết rõ nó phải không? Mình chỉ biết khái quát nó vậy thôi. Rồi ở trong đó mọi sinh hoạt của nó mình đều không biết hết. Rồi nhu cầu nó đòi cái gì đó thì, thí dụ bây giờ nghe khô ở trỏng, khát nước thì mình cứ uống vô, cho ở trỏng có nước nôi cho mát mẻ, nó hoạt động. Rồi nhu cầu nó thiếu lương thực của cái bao tử thì dồn vô. Như vậy là đều do cái nhu cầu ở trỏng rồi mình làm theo cái cái nhu cầu đó. Chớ mình có chủ gì đâu. Bây giờ mấy chú thử làm chủ cái coi. Khi bao tử trống rỗng không thèm ăn. Không thèm ăn vô thử coi chịu nổi không? Rồi khi mình vô đầy rồi, nó muốn ra đừng thèm cho nó ra. Chịu nổi không? Thử làm thử coi. Mấy cái đó đâu làm chủ được phải không? Nghĩa là nó tới giai đoạn đó, nó đòi vô thì phải cho nó vô. Nó đòi ra phải cho nó ra. Chớ mình không làm chủ gì hết. Như vậy mới thấy rõ là không có chủ. Mà không có chủ tức là vô ngã chứ gì. Đó, đã vô ngã thì ai là tạo tác, ai là người thọ. Nhưng mà cái nghiệp gì mình tạo thì nó không mất. Cái thói quen nào mình tập thì nó thành công. Nó mắc kẹt ở đó. Như vậy mới thấy cái ý nghĩa của đạo Phật thật là khó. Vì nó tế nhị quá. Đó là bốn câu tán thán pháp của Phật nó rất là nhiệm mầu khó hiểu. Rồi kế. 

Mới ở cội Bồ đềthành Phật hay là mới ở cội Bồ đề dùng sứchàng phục chúng ma được diệt cam lồ giác thành đạo. 

Mấy câu này nghe rất là khó. 

Đã không tâm ý không thọ hành mà phải hàng phục các ngoại đạo

Nói rằng đức Phật khi Ngài tu ban đầu dưới cội Bồ đề, Ngài mới dùng sức để hàng phục ma quái. Như mình đọc trong sử hay nói rằng: Ngài hàng phục ma vương đó. rồi chữ “Đắc cam lồ giác diệt giác đạo thành”. Đắc cam lồ diệt là làm sao? Bởi vì trong Tứ Đế, Diệt đếNiết bàn. Diệt đế tức là vị cam lồ. Mà được Diệt đế rồi thì mới giác ngộ mới thành đạo. Như vậy thì mình mới thấy chỉ có mấy chữ thôi mà nói quá rộng. Bởi khi Ngài ngồi dưới cội Bồ đề dùng sức hàng phục ma quái. Khi hàng phục ma quái rồi, được cái Diệt. Diệt đó là được cái tâm thanh tịnh. Đó là cái vị cam lồ. Nhân đó Ngài mới giác ngộ mới thành đạo. Ngài đã không còn có cái tâm ý, không còn có cái thọ hành. Thọ hành tức là nghiệp đó. mà phải hàng phục được các ngoại đạo. Thường thường thì muốn hàng phục ai, muốn lý luận với ai thì trước mình phải làm sao. Trước mình phải suy nghĩ, phải không? Mình tìm lý này, lẽ kia để mà mình cố chinh phục họ. Đó là tâm ý sưe dúng trước nhưng mà với Phật thì cái ý nghiệp Ngài đã hết. Đã thanh tịnh tất cả. Nhưng tâm phiền não không còn. Như vậy lấy cái gì mà Ngài hàng phục ma quái hay là hàng phục ngoại đạo. Tuy rằng tâm ý không còn suy nghĩ phân biệt mà Ngài hàng phục được ngoại đạo. Đó là cái đặc biệt. Cho nên thường gọi là thời trí đó. Ngài không cần suy nghĩ trước. Nhưng mà vừa tới, người ta đề ra cái gì là Ngài thấy rõ vấn đề đó. Ngài liền bẻ họ. Chớ không phải như mình phải nằm suy nghĩ năm tháng, ba tháng gì. Rồi để mà lập lý luận, mà tới bàn với người ta. Không phải vậy. Bởi vậy cho nên nói cái đặc biệt của Ngài đó, là khi mà giác ngộ rồi thì tâm ý Ngài đã trong sạch. Nghiệp không còn. Như vậy mà Ngài khéo hay hàng phục hết thảy các ngoại đạo

Ba phen chuyển pháp luânđại thiên. Cái pháp luân kia xưa nay thường thanh tịnh. Trời, người được đạo này. 

Tức là được đạo do chuyển pháp luân đó, là chứng quả

Tam bảo nơi đây hiện thế gian. 

Hay là tam bảo khi ấy hiện thế gian. Đây là tán thán đức Phậtvườn Lộc Uyển. Ngài khéo chuyển pháp luân hay là tam chuyển pháp luân. Rồi những vị có mặt ở đó là người, là trời... Nhờ đó mà chứng được đạo. Từ đó mới đủ tam bảo hiện thế gian. Tại sao nói rằng chuyển pháp luânđại thiên. Thường thì chúng ta thấy Ngài chuyển pháp luânvườn Lộc uyển, với năm anh em Kiều Trần Như thôi phải không? Chớ đâu có chuyển khắp hết mà nói là cả đại thiên. Nhưng mà nếu đọc sử thì mấy chú thấy, khi Phật chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển rồi thì cái tiếng đó vang lên, chư thiên ở các cõi trời đều lập lại cái đó phải không? Lập lại tiếng đó cho đến vang khắp cả cõi Trời, tới cõi Phạm Thiên. Bởi vậy cho nên nói rằng chuyển pháp luân cả đại thiên là vậy. Nghĩa là khi Phật nói, thuyết phápvườn Lộc Uyển, năm anh em ông Kiều Trần Như nghe pháp Tứ đế đó. Nghe cái đó rồi thì chư Thiên, Long Thần, Thổ Địa mới diễn tiếng đó lại. Rồi nó vang lên ở trên các cõi đều diễn tiếng đó mà nó trùm cả tới cõi Trời Phạm Thiên


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12510)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10400)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11664)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28831)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11462)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17457)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53089)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21414)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19262)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12429)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26058)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13329)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14395)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13142)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11619)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11632)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14518)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20496)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18673)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12202)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13876)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15049)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14003)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11410)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17206)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14988)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20227)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14631)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15076)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13007)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22902)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11677)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13179)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18355)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11512)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12896)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18440)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant