Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Quy Luật Của Nghiệp

08 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 10055)
05. Quy Luật Của Nghiệp

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC
(BUDDHISM COURSE)
Chan Khoon San
Biên dịch: Lê Kim Kha
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG 2011

V

QUY LUẬT CỦA NGHIỆP

(Kamma)

NỘI DUNG

01 Năm Quy Luật Của Vũ Trụ
02 Sự Quan Trọng Trong Việc Hiểu Biết Quy Luật Của Nghiệp
03 Nghiệp (Kamma) Là Gì?
04 Quy Luật Của Nghiệp Vận Hành Ra Sao?
05 Cái Gì Là Nguyên Nhân Của Nghiệp?
06 Ai Là Người Thi Hành Nghiệp? Ai Là Người Nhận Lãnh Nghiệp Quả (Vipaka)?
07 Tất Cả Nghiệp Chứa Ở Đâu?
08 Phân Loại Nghiệp
09 Phải Chăng Một Người Nhận Lãnh Một Phần Nào Đó Của Tất Cả Nghiệp Người Đó Đã Tạo Ra?
10 Những Bài Học Rút Ra Từ Nghiệp
11 Chú Giải
Sách & Tài Liệu Tham Khảo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1. Năm Quy Luật Của Vũ Trụ

 

Trong Phật giáo, có 5 tiến trình hay 5 quy luật (Niyamas) của vũ trụ vận hành trong những cõi thuộc về vật chấttâm linh. Đó là:

 

a) Utu Niyama: Tiến trình nhiệt hay vật lý vô cơ, ví dụ như: sự thay đổi theo mùa của thời tiết, bản chất của nhiệt, năng lượng, những phản ứng hóa học…

 

b) Bija Niyama: Tiến trình Gen hay tiến trình sinh thực là tiến trình vật lý hữu cơ, ví dụ như: lúa từ hạt lúa mầm, vị ngọt của đường mía, những sự phát triển khác nhau của thực vật, di truyền học và DNA của động vật…

 

c) Kamma Niyama: Tiến trình Nghiệp về đạo đức hay nhân quả. Những hành động thiện và bất thiện (nhân) tạo ra những kết quả tốt và xấu tương ứng.

 

d) Citta Niyama: Tiến trình Tâm hay quy luật về Tâm linh, ví dụ như: tiến trình tâm (Thức), năng lực của tâm, đọc tâm hay sự giao tiếp của tâm (Cetopariyaya Nana)[1], sự nhớ biết những kiếp quá khứ, thiên nhãn, năng lực thần thông…

 

e) Dhamma Niyama: Tiến trình Pháp, ví dụ những hiện thượng tự nhiên xảy ra khi một vị Bồ-tát ra đời, xuất hiện, lực trọng trường và những và những quy luật thiên nhiên khác.

 

Mọi hiện tượng về vật lýtâm linh đều có thể được giải thích bằng 5 tiến trình hay 5 quy luật này, vận hành và diễn ra trong chính bản thân chúng. Nghiệp (Kamma) cũng thuộc một trong 5 tiến trình, trật tự này, nó không cần có người cho, người thi hành, người ép, bởi vì đơn giản chúng thuộc về những quy luật tự nhiên.

 

 

 

 

2. Sự Quan Trọng Của Việc Hiểu Biết Quy Luật Nghiệp (Kamma)

Quy Luật Nghiệp (Kamma) là một học thuyết cơ bản, nền tảng của Phật Giáo. Mặc dù niềm tin về Nghiệp này đã có mặt ở Ấn Độ trước khi Đức Phật ra đời, nhưng chính Đức Phật đã giảng dạy và đã hoàn chỉnh học thuyết này ta có ngày hôm nay.

 

Vì không hiểu nổi sự khác biệt nhau giữa những con người, một Bà-la-môn trẻ tên là Subha đã đến gặp Đức Phật và nhờ Phật giải thích nguyên nhân của sự bất tương đồng này: Nguyên nhân và những điều kiện nào mà loài người có người ưu, người nhược, người hơn, người kém? Có người sống lâu, có người chết trẻ, có người bệnh yểu, có người khỏe mạnh, có người đẹp, có người xấu, có người có quyền, có người không có quyền, có người nghèo, có người giàu, có người đẻ ra hạ tiện, có người đẻ ra cao quý, có người ngu, có người khôn?

 

Đức Phật trả lời rằng:

 

Tất cả chúng sinh đều là chủ nhân của những hành động của mình (kammasaka), là người thừa hưởng của những hành động của mình (kammadayada), chúng sinh khởi sinh (đầu thai) từ những hành động của mình (kammayoni), chúng sinh đều liên quan với những hành động của mình (kammabandhu), có những hành động của mình làm nơi nương tựa cho mình (kammapatisarana). Đó là hành động (Nghiệp, kamma) làm cho chúng sinh hơn kém, khác nhau”.

 (“Trung Bộ Kinh”-Majjhima Nikaya Sutta No. 135, Kinh Culakammavibhanga).

 

Trong quyển Expositor (“Luận giảng Vi Diệu Pháp”, Tr. 87), có ghi rằng:

 

“Tùy thuộc vào sự khác nhau về Nghiệpxuất hiện những sự khác nhau về vận mệnh của những loài chúng sinh không có chân, có hai chân, bốn chân, nhiều chân, có nhận thức (hữu tình) hay không có nhận thức (không hữu tình)”.

 

Tùy thuộc vào sự khác nhau của Nghiệp mà xuất hiện những sự khác nhau về sự sinh ra những loài chúng sinh, cao và thấp, thấp hèn và cao quý, sung sướng và đau khổ”.

 

Tùy thuộc vào sự khác nhau của Nghiệp xuất hiện những sự khác nhau về tướng nét của những chúng sinh đẹp và xấu, sinh ra cao quý và hạ tiện, lành mạnh và tật nguyền”.

 

Tùy thuộc vào sự khác nhau của Nghiệp xuất hiện những sự khác nhau về những điều kiện thế gian (duyên trần) của chúng sinh, như là được và mất, vinh và nhục, khen và chê, sung sướng và đau khổ”.

 

Vì vậy theo quan điểm của Phật giáo, những sự khác nhau trước mắt trong chúng ta về tinh thần, đạo đức, trí khônthể cách, phần lớn là xuất phát từ những hành động (Nghiệp) và thiên hướng của chúng ta, cả trong quá khứhiện tại. Mặc dù Phật Giáo đã đóng góp thêm phần phân tích những biến hóa của Nghiệp (kamma) là nguyên nhân chính yếu trong những biến hóa khác, tuy nhiên cần phải nói thêm rằng Phật Giáo không quả quyết rằng tất cả mọi sự đều chỉ do một mình Nghiệp (kamma) gây ra.

 

Quy Luật về Nghiệp (Kamma) thì rất quan trọng như đã giải bày, nhưng nó chỉ là một trong 24 điều kiện được mô tả trong những mối quan hệ Nhân Duyên ghi trong “Bộ Vị Trí” (Patthana) của “Vi Diệu Pháp Tạng” (Abhidhamma). Đây là bộ lớn nhất, luận giải chi tiết về Nhân Duyên và tương quan giữa các hiện tượng, gồm 4 “Phẩm” (tập) lớn.

 

 

 

 

3. Nghiệp (Kamma) Là Gì?

 

Theo tiếng Pali, từ Nghiệp (kamma), (tiếng Phạn: karma), có nghĩa gốc là hành động hay sự làm, việc làm. Nhưng Nghiệp ở đây là chỉ những hành động cố ý, hành động có ý chí, bao gồm ý nghĩ (tâm), lời nói (miệng) và việc làm (thân). Nên có một số học giả cũng gọi “Thân, Ý, Miệng” hay “ý nghĩ, lời nói và hành động” là 3 Nghiệp.

 

Nói chung, tất cả những hành động tốt và xấu đều tạo nghiệp. Nói theo nghĩa rốt ráo, thì nghiệp (kamma) có nghĩa là những “Hành” hay “Tâm Hành thiện và bất thiện (kusala- akusala cetana).

 

Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara III, 415), Đức Phật đã dạy:

Ta tuyên bố, này các Tỳ Kheo, Ý Hành (cetana) là Nghiệp (kamma). Theo ý chí của mình, một người đã hành động thông qua thân, lời nói, và ý nghĩ”.

 

▪ Xem thêm Chú Giải 1 về Ý Hành[2] (cetana).

 

Những hành động không tự nguyện, không cố ý hay không cố ý thức, mặc dù rõ ràng cũng là những hành động, thì không tạo Nghiệp, bởi vì ở đây không có sự cố ý, ý chí tạo tác, tức là yếu tố Hành, một yếu tố để định ra Nghiệp. Không có ý chí, một hành động là “Trơ”.

 

Nghiệp (kamma) không phải là “số phận” hay “Định mệnh” đã định trước và được áp đặt lên chúng ta bởi một thế lực hay đấng siêu nhiên bí mật nào. Nghiệp là những hành động của mọi người tương tác tạo ra những nghiệp quả tương ứng, và vì vậy, một người có thể thay đổi Nghiệp hay tiến trình Nghiệp của mình bằng những cách khác nhau. Việc chuyển nghiệp được bao nhiêu, nhiều hay ít, đều do nỗ lực bản thân của mỗi người. Vì vậy, chúng ta đều có một số “ý chí” tự do để mà đổi nghiệp, chuyển nghiệp theo mong ước. Quá khứ sẽ tác động đến tương lai, nhưng quá khứ không hoàn toàn quyết định hết tương lai, bởi vì Nghiệp (kamma) đã bao gồm cả những hành động trong quá khứ và cả tương lai.

 

(Chẳng hạn trong quá khứ bạn đã làm nhiều hành động ác xấu, bất thiện, thì chắc chắn theo luật nhân quả hay nghiệp quả, bạn phải nhận lãnh hệ quả xấu trong hiện tại và tương lai. Hiện tại cũng là tương lai của quá khứ.

 

Nhưng nếu trong hiện tại hay tương lai gần bạn đã hối cải, tu tậpthực hiện những hành động tốt, thiện, thì chắc chắn, cũng theo quy luật nhân quả, bạn sẽ nhận lãnh những hệ quả tốt đẹp trong tương lai gần hoặc tương lai. Tuy nhiên, những hành động tốt, thiện hiện tại hay tương lai gần này chưa chắc đã có thể chuyển đổi được hết những nghiệp bạn đã gây ra trong quá khứ. Vì Nghiệp quả của bạn bị chi phối bởi cả những hành động hiện tại, tương lai và cả quá khứ - ND).

 

 

 

 

4. Quy Luật Nghiệp (Kamma) Vận Hành Như Thế Nào?

 

Kamma là hành động, là Nghiệp, Vipaka là quả, là nghiệp Quả. Kamma nguyên nhânvipakatác động, là Quả. Theo quy luật về Nghiệp, thì mọi hành động cố ý, có ý thức đều được đi kèm những tác động hệ quả của chúng.

 

Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya I, 227) có ghi chép rằng:

“Gieo hạt gì, thì gặt quả đó.

Người làm điều lành, thì gặt quả lành.

Người làm điều ác, thì gặt quả ác.

Gieo trồng hạt gì, thì sẽ nếm vị quả đó”.

 

Nghiệp (Kamma) bản thân nó là một quy luật, nên nó vận hành, hoạt động trong ‘sân chơi’, ‘trong lĩnh vực hoạt động’ của nó và không phụ thuộc vào sự can thiệp hay định đoạt hay điều khiển của một thế lực bên ngoài nào cả. Quy luật về Nghiệp vận hành theo những cách thức như sau:

 

(a) Tất cả những hành động (nghiệp) bất thiện, thì tạo ra kết quả bất thiện. Có 10 nghiệp bất thiện, đó là: (thân) sát sinh, trộm cắp, tà dâm; (miệng) nói dối, nói lời vu khống, nói lời chửi mắng, nói chuyện tầm phào; (ý) tham lam, sân hận, si mê.

 

(b) Tất cả những hành động (nghiệp) thiện, thì tạo ra kết quả thiện. Việc kiêng cử, không làm 10 hành động (nghiệp) bất thiện trên đây, có nghĩa đã làm hay tạo nghiệp thiện. 

 

(c) Bên cạnh đó, có 10 công hạnh để tạo ra những công đức, đó là: Bố thí, giới hạnh, thiền tập, kính trọng (bất khinh), phục vụ, chuyển nhượng hay hồi hướng công đức, hoan hỉ công đức của người khác, chỉ dạy giáo Pháp (Dhamma), lắng nghe giáo Pháp (Dhamma) và tạo lập chánh tri kiến. (Xem thêm Chương XI).

 

(d) Ai làm thì người ấy nhận lãnh. Một người có ý thức hành động hay tạo nghiệp thiện/bất thiện, thì người đó nhận lãnh nghiệp quả thiện/bất thiện. Không thể một người này hành động hay tạo nghiệp thiện/bất thiện và một người khác nhận lãnh nghiệp quả thiện/bất thiện đó.

 

(e) Để suy đoán từng nghiệp thiện hay bất thiện, chúng ta có thể xem xét 4 lĩnh vực tác động của nghiệp (kamma), đó là: 

1) Do chính mình làm,

2) Xúi giục người khác làm,

3) Làm theo, nghe theo sự xúi giục của người khác, và

4) Đồng tình, tán thưởng một hành động.

 

 

 

 

5. Cái Gì Là Nguyên Nhân Của Nghiệp (Kamma)?

 

Vô Minh (avijja) hay “sự không hiểu biết những sự vật như chúng là” là nguyên nhân chính yếu của Nghiệp (kamma). Tùy thuộc vào/do có Vô Minh mà khởi sinh ra những Hành Động Cố Ý/Hành (sankhara)” hay ngắn gọn hơn là: “Vô Minh duyên Hành’ như đã ghi rõ trong vòng Duyên Khởi (Paticca Samuppada). Cùng với Vô Minh, đồng minh của nó là Tham Muốn, Dục Vọng lại là một nguyên nhân gốc rễ khác của Nghiệp (kamma). Tất cả những hành động bất thiện đều do 2 nguyên nhân này mà ra.

 

Tất cả những hành động tốt, thiện của một người phàm tục, mặc dù được đi kèm với những 3 căn rễ rộng lượng (bố thí), từ bitrí tuệ, cũng vẫn được xem là nghiệp (tạo nghiệp), vì 2 yếu tố Vô MinhDục Vọng vẫn còn ở trong những hành động đó. Nghiệp (kamma) chỉ không còn được tích lũy ở những ai đã dập tắt hay quét sạch Vô MinhDục Vọng và đã hiểu biết rõ “mọi sự vật như chúng la”.

 

Những vị Phật và những bậc A-la-hán không còn tích nghiệp vì họ đã nhổ sạch tận gốc Vô MinhDục Vọng, 2 nguyên nhân gốc tạo ra nghiệp:

Họ đã tiêu diệt mầm móng, tham dục không còn lớn lên được” (Te khina bija, avirulhicchanda. - Đoạn 14, Kinh Châu Báu -Ratana Sutta).

 

Mặc dù Hành (tạo tác) luôn luôn hiện diện trong mọi hành động, lời nói, ý nghĩ, nhưng trong trường hợp của A-la-hán, Hành không có đi kèm bởi Dục Vọng vào cuối những sát-na thúc đẩy, nên nó (Hành) hoàn toàn biến mất không để lại một dấu vết nào và cũng không chuyển thành nghiệp (kamma). Vì thế, nên không còn dẫn đến tái sinh đối với A-la-hán. Tuy nhiên, họ vẫn còn phải nhận lãnh những kết quả của những nghiệp trong quá khứ, vì trong quá khứ, các nghiệp đó đã được tạo rồi.

 

 

 

 

6. Ai Là Người Thi Hành Nghiệp (Kamma)? Ai Là Người Nhận Lãnh Nghiệp Quả (Vipaka)?

 

Câu trả lời được ghi trong quyển “Visuddhi Magga” (Thanh Tịnh Đạo):

 Không có người tạo nghiệp” 

Cũng không có kẻ nếm nhận nghiệp quả”.

 

Theo Phật giáo, luôn luôn có 2 loại sự thật hay 2 chân lý:

- Sự thật truyền thống hay ước lệ của thế gian (Tục đế); và

- Sự thật tuyệt đối (Chân đế).

 

Theo truyền thống thế gian, những danh từ ước lệ như đàn ông, đàn bà, thú vật, ‘con người’, cái ‘Tôi’ và nhiều nữa. Nhưng đúng trong thực tại chân đế, thì không có những cái ‘Tôi’ hay bản ngã bất biến hay bất kỳ một thực thể sống nào ở dạng một ‘con người’, đàn ông, đàn bà hay bất kỳ một bản ngã trường tồn nào cả. một dạng hay thực thể ‘thoáng qua’ bao gồm những quá trình vật chấttinh thần (danh sắc) luôn luôn thay đổi, luôn luôn biến đổi trong từng lập tức, trong từng sát-na, và không bao giờ là một cái gì tồn tại giống nhau trong 2 chập khoảng khắc hay sát-na liên tục. Cái được gọi là một ‘thực thể sống’ hay một ‘con người’ chỉ là một sự kết hợp của Năm tập hợp Uẩn (khandas), gồm Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩnThức uẩn. Không có một người nào làm ra hành động bên cạnh hành động (nghiệp), không có người nghĩ đằng sau ý nghĩ. Vậy ai là người làm ra nghiệp hay thực hiện Nghiệp? Ai nhận lãnh tác động hay hậu quả của Nghiệp.

 

Ý chí hay Hành (cetana) tự thân là tác nhân.

Còn Cảm Thọ (vedana) cảm giác hậu quả hay tác động.

 

Bên cạnh quá trình hay tiến trình tâm này, không ai có gieo hạt nghiệp hay có ai gặt hái quả hết. Vì vậy, Nghiệp (kamma) không phải là do một bản ngã hay linh hồn tác động vào, bởi vì không có cái gọi là một ‘bản ngã’ hay một ‘linh hồn’ thường hằng, bất biến.

 

 

 

 

7. Tất Cả Nghiệp Chứa Ở Đâu?

 

Một hành động hay Nghiệp (kamma) một khi hay ngay khi đã làm, thì đã hình thành Nghiệp. Nghiệp không thể hủy ngược hay đảo ngược được. Sự hành động là một tiềm năng của nó, đó là hậu quả không thể tránh được: Nghiệp Quả (vipaka). Ngay trong một kiếp thôi, một người có thể làm nhiều việc thiệnbất thiện. Vì thế, chắc chắn người ấy đã tích lũy rất nhiều Nghiệp (kamma). Một câu hỏi thông minhlý thú là: Vậy tất cả những Nghiệp đó được chứa hay tích tụ ở đâu?. Để trả lời câu hỏi này cho Vua Milinda, ngài Nagasena đã giảng giải như sau:

 

Nghiệp (Kamma) không phải được chứa trong cái Thức thoảng hiện thoảng mất hay trong chỗ nào của thân này. Nhưng tùy thuộc vào Tâm và Thân, nó chọn chỗ, biểu hiện nó vào khoảng khắc hợp thời nhất, cũng như không phải nói những trái xoài được tích chứa ở đâu trong cây xoài, nhưng tùy thuộc vào cây xoài chúng nằm, mà đơm trái theo đúng mùa.

 

Tương tự như vậy, lửa không phải được chứa trong diêm quẹt, nhưng dưới tác động ma sát thích hợp, diêm quẹt sẽ tạo ra lửa. Nghiệp (Kamma) là một “tiềm năng” có thể được chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác.

 

 

 

 

8. Phân Loại Nghiệp (Kamma)

 

Nghiệp (Kamma) được phân thành 4 loại tùy theo chức năng của nó, thứ tự ưu tiên của quả, thời gian tạo quả và cảnh giới hay cõi nào xảy ra nghiệp quả.

 

a) Chức Năng

Có 4 loại Nghiệp tùy theo chức năng của nó. Mỗi lần sinh hay tái sinhtùy thuộc vào điều kiện của nghiệp tốt xấu trong quá khứ biểu hiện hay quyết định vào khoảng khắc hay ngay lúc chết. Nghiệp làm điều kiện (duyên) cho tái sinh kiếp sau gọi là Nghiệp Tái Sinh.

 

Có thể có những nghiệp khác can thiệp hay duy trì làm suy yếucản trở sự tạo quả của Nghiệp Tái Sinh. Những Nghiệp như vậy được gọi là Nghiệp Hỗ Trợ hay Nghiệp Cản Trở.

 

Theo quy luật về Nghiệp, nguồn năng lực tiềm năng của Nghiệp Tái Sinh, có thể bị hoàn toàn bãi bỏ hay thủ tiêu bởi một nghiệp nghịch chiều mạnh hơn trong quá khứ, nó tìm cơ hội hoạt động bất ngờ, như là một nguồn lực đối kháng có thể làm cản trở đường bay của một mũi tên. Hành động, tác động như vậy được gọi là Nghiệp Tiêu Diệt, nó mạnh hơn 2 loại nghiệp hỗ trợ và nghiệp cản trở kia, vì nó không chỉ cản trở, mà còn tiêu diệt toàn bộ nghiệp lực ngược chiều

 

 

b) Thứ Tự Ưu Tiên Tạo Quả

Đầu tiên là Nghiệp Nặng (Garuka kamma), chắc chắn nó sẽ gây ra quả ngay trong kiếp này hoặc kiếp kế tiếp. Trong số những nghiệp nặng hay nghiệp nghiêm trọng, những nghiệp thiện là những cảnh giới Thiền Định (Jhanas), những nghiệp ác là 5 tội ác lớn, đó là: Tội giết mẹ, Tội giết cha,Tội giết bậc A-la-hán, Tội hãm hại Phật, Tội gây chia rẽ Tăng Đoàn.

 

Nếu không có mặt Nghiệp Nặng để tạo điều kiện tái sinh, thì một Cận Tử Nghiệp có thể hoạt động. Nghiệp này làm cho một người nhớ đến lập tức trước ngay khi cổng chết. Bởi vì ý nghĩa của nghiệp này là tạo quả tái sinh kiếp sống tương lai, ở những nước Phật giáo có những thói quen nhắc nhở người sắp chết hồi tưởng lại những điều tốt đẹp, những nghiệp thiện người ấy đã làm khi trước đó và giúp người ấy nghĩ hoặc làm những nghiệp thiện trước khi chết.

 

Nghiệp Thói Quen hay Quán Tính là nghiệp có thứ tự ưu tiên thứ hai khi Nghiệp Nặng không có. Đó là những hành động thường xuyên được thực hiện trong quá khứ, là những hành động mà người ấy luôn luôn thích làm và luôn nhớ đến.

 

Cuối cùng, nghiệp ưu tiên thứ ba khi không có Nghiệp NặngNghiệp Tích Lũy. Nghiệp Tích Lũy bao gồm tất cả những nghiệp còn lại, trừ 3 nghiệp đi đầu ở trên. Nghiệp này giống như một kho lưu trữ hay số tiền dự trữ của một người vậy.

 

 

c) Thời Gian Tạo Nghiệp Quả

Có rất nhiều nghiệp tạo ra những nghiệp quả trong kiếp này, hay kiếp sau hay bất kỳ kiếp sống nào trong suốt quá trình lang thang, trôi giạt trong vòng luân hồi, sinh tử của một người. Có những nghiệp có hậu quả tức thì, Nghiệp Quả hay Quả Báo Nhãn Tiền; Nghiệp Quả Tiếp Nối (xảy ra sau đó) và Nghiệp Quả Bất Định (không biết xảy ra lúc nào). Khi những nghiệp lẽ ra tạo nghiệp quả trong kiếp này hay kiếp sau nhưng không xảy ra, thì chúng được gọi là những Nghiệp Vô Hiệu, tức không tác động tạo quả.

 

 

d) Cảnh Giới Xảy Ra Nghiệp Quả

Phân loại cuối cùngdựa vào cảnh giới hay cõi nào mà nghiệp quả xảy ra, đó là:

 

i) Những Nghiệp bất thiện chín muồi, tạo quả ở những cõi Dục Giới (Kamaloka) nhiều khổ ải, như là: cảnh giới địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và yêu quái.

 

ii) Những Nghiệp thiện chín muồi, tạo quả ở những cõi Dục Giới (Kamaloka) nhiều hạnh phúc hơn, đó là cảnh giới con người và 6 cảnh giới chư thiên, trời thần. Trong Vi Diệu Pháp tạng (Abhidhamma), những Nghiệp thiện này là 8 loại (tâm) Thức thiện (sobhana citta) thuộc về Dục Giới. (Xem thêm Chương XI, 2).

 

iii) Những Nghiệp thiện chín muồi, tạo quả ở cảnh trời Sắc Giới (Rupaloka) của các trời Phạm Thiên (Brahmas), có hình sắc. Đó là những cảnh giới thiền định hay những tầng thiền Sắc Giới (rupa-jhanas), đó là: Cảnh Giới Sơ Thiền, Thứ Hai, thứ Ba và thứ Tư, như đã mô tả trước đây.

 

iv) Những Nghiệp thiện chín muồi, tạo quả ở cảnh trời Vô Sắc Giới (Arupaloka) của các trời Phạm Thiên (Brahmas), nhưng không có hình sắc. Đó là những cảnh giới thiền định hay những tầng thiền Vô Sắc Giới (arupa-jhanas), đó là: Xứ Hữu Không Vô Biên, Xứ Thức Vô Biên, Xứ Vô Biên và Xứ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng (tức không có nhận thức và cũng không khôngnhận thức).

 

 

 

 

9. Phải Chăng Một Người Nhận Lãnh Một Phần Nào Đó Của Tất Cả Nghiệp Người Đó Đã Tạo Ra?

 

Trong quy luật Nghiệp đã chỉ rõ rằng: chúng ta gặt thứ chúng ta gieo trồng, hay là chúng ta gieo nhân nào thì gặt quả nấy, thì vẫn có một mảng vấn đề khác về Nghiệp, cũng rất là quan trọng, đó là: Nghiệp Quả có thể được sửa đổi hay cải tạo. Điều này có nghĩa là quy luật về Nghiệp và Quả không phải hoạt động cứng nhắc như một cỗ máy, mà cho phép sửa đổi, chỉnh sửa hay cải tạo trong khi tạo quả. Đây là một khía cạnh “năng động” của Nghiệp mà Đức Phật đã giảng dạy trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttarra I, 249) như sau:

Nếu có ai nói rằng một người phải nhận lãnh tất cả những gì do những nghiệp của người đó tạo ra, thì trong trường hợp này không có đời sống tâm linh và cũng không có cơ hội nào dập tắt hay trừ diệt hết đau buồn (phiền não)”.

 

Nhưng nếu có ai nói rằng những gì một người nhận lãnh là tương xứng với những nghiệp người đó tạo ra, thì trong trường hợp đó có đời sống tâm linh và có được cơ hội để trừ diệt hết đau buồn (phiền não)”.

 

Với những lời dạy này, Đức Phật muốn nói với chúng ta rằng, Nghiệp không phải là ‘Số Phận’ hay ‘Định Mệnh’ đã an bài. Nhưng cũng không phải nghĩa là một người chỉ phải nhận lãnh một phần nào đó của tất cả nghiệp mà người đó đã tạo ra. Chúng ta có thể giải thích điều này bằng hình ảnh trái bi-da, hướng của trái bi có thể được thay đổi hoặc thậm chí bị dừng lại, nếu một trái bi khác được đánh đến để tác động vào nó theo một gốc hay lực thích hợp nào đó, theo ý của người chơi.

 

Cũng như bất kỳ sự kiện vật lý nào, tiến trình tâm kết thành những hành động tạo nghiệp không phải tồn tại một cách đơn độc. Vì thế công năng tạo nghiệp quả của một nghiệp không phải chỉ phụ thuộc vào tiềm năng của những nghiệp khác. Chúng ta có thể tưởng tượng để thấy rằng, một Nghiệp riêng biệt nào đó, dù là thiện hay bất thiện, đôi lúc có thể được gia trọng hay được tăng mạnh hơn bởi Nghiệp Hỗ Trợ hoặc có thể bị giảm thuyên hay bị làm yếu đi bởi Nghiệp Cản Trở hay thậm chí bị tiêu diệt hay xóa sổ bởi Nghiệp Tiêu Diệt. Tiến trình tạo ra nghiệp quả cũng có thể bị chậm lại nếu không đủ duyên hay những điều kiện để quả chín muồi, và sự chậm trễ này có thể lại tạo cơ hội cho các Nghiệp Cản Trở hay Nghiệp Tiêu Diệt hoạt động can thiệp vào nữa.

 

Bên cạnh những điều kiện bên ngoài hay ngoại duyên, thì bản chất tâm linh của tâm, là nơi khởi sinh các Hành hay hành động tạo nghiệp, có thể cũng tác động vào quá trình xảy ra nghiệp quả. Người có nhiều đạo đức hoặc những phẩm chất tâm linh tốt thì một ‘tội lỗi’ gây ra có thể sẽ không dẫn đến nghiệp quả nặng, nhưng đối với những ngươi thiếu phẩm chất đạo đức và phẩm chất tâm linh, thì thường một ‘tội lỗi’ có thể tạo nhanh thành nghiệp quả nặng cho người ấy, vì người này không có được những đức hạnh và tâm thiện để bảo vệ mình khỏi nghiệp dữ.

 

Đức Phật đã dùng ví dụ so sánh của nước trong ly nước khi pha vào một nắm muối với vị của nước sông Hằng khi pha vào một nắm muối như vậy. Vì vậy, mặc dù tướng cướp sát nhân Angulimala trước kia đã giết quá nhiều người trước khi ông gặp Phật, và những nghiệp ác của ông đã gây ra chắc chắn sẽ dẫn ông vào những cõi xấu, địa ngục…trong nhiều kiếp sau này. Nhưng ông đã quay đầu lại và tu sửa và cuối cùng đã chứng ngộ A-la-hán và ông không còn tái sinh, đóng hết các cửa nghiệp báođau khổ sau này, mặc dù trong khi quay đầu lại, ông đã phải trả giá một cách thảm khốc cho nghiệp nặng trong quá khứ của mình ngay khi còn sống. Điều này có nghĩa là, sự quay đầu tu hành theo đời sống đạo hạnh của ông và chấp nhận chịu đựng mọi quả báo tàn khốc, đã tái tạo nhiều giá trị đạo đức và phẩm chất tâm linh lớn (như nước sông Hằng) thì có thể làm nghiệp nặng của mình được thuyên giảmtiêu trừ.

 

Vấn đề duyên nghiệp chằng chịt và phức hợp để dẫn đến nghiệp quả, cho nên Phật đã từng nói rằng Nghiệp duyênnghiệp quả là một trong 4 lĩnh vực hay đề tài “không thể nghĩ bàn”, nó vượt qua những tư duy của con người và không nên phỏng đoán về một tiến trình nghiệp quả, vì ngay cả nghiệp quả đời này lại do nhân của một nghiệp rất xa trong hàng trăm, hàng ngàn kiếp trước mà để nhìn thấy được nó là điều “không thể nghĩ bàn”.

 

Nhưng mặc dù nghiệp vượt qua tầm hiểu biết thông thường của thế gian, nhưng một thông điệp quan trọng nhất mà Đức Phật đã muốn nhắn gửi cho chúng ta là: Sự thậtNghiệp Quả có thể sửa đổi, uốn nắn được, điều đó giải phóng con người khỏi suy nghĩ hay ám ảnh về một số phận đã an bài hay chủ nghĩa định mệnh; và vì thế mở ra một con đường rộng mở để một người có thể nỗ lực tu tập để chuyển hướng nghiệp hay sửa nghiệp theo hướng tốt lành hơn. Mọi người đều có một số ‘ý chí tự do, chủ quan’ để tạo khuôn mẫu, lối sống cho cuộc đời của mình để trở thành một người đạo hạnh, nếu thật sự người đó quay đầu và nỗ lực.

 

Tuy nhiên, trong thế gian này, bao gồm cả chính bản thân một người, thì tùy thuộc vào rất nhiều điều kiện mà ta gọi là “Duyên”, và nếu không đủ những điều kiện cần thiết hay thiếu “duyên”, thì cũng không làm được gì.

 

(Vậy thì sao?, nhiều tu sĩ đã nỗ lực hết mình cả cuộc đời mình để mong chuyển nghiệp, giác ngộ, nhưng dường như điều đó đã xảy ra rất ít. Nhưng một người Phật tử chân chính khi đã nắm rõ quy luật Nghiệp, thì vẫn tiếp tục kiên trì. Một lúc nào đó trong kiếp này, hay kiếp này chỉ là duyên nhỏ để tạo duyên lớn ở kiếp sau, và một ngày nào đó đủ các “Duyên” lành, nghiệp sẽ được chuyển đổi. Nên là Phật tử chân chính, thì vẫn tinh tấnkiên trì tu tập – ND).

 

 

 

 

10. Những Bài Học Rút Ra Từ Nghiệp (Kamma)

 

Học thuyết về Nghiệp của Đức Phật là một giáo lý về một trách nhiệm đạo đứctâm linh của chính một người và mình đối với những người khác. Càng hiểu về quy luật của Nghiệp, chúng ta càng phải nên cẩn thậnchú tâm đối với những hành động, ý nghĩlời nói của mình nếu chúng ta mong muốn tích lũy nghiệp lành. Vì một khi những hành động, ý nghĩ, lời nói được nói ra thường xuyên, chắc chắn sẽ tiếp tục lập đi, lập lại và càng tích lũy thêm về nghiệp. Vì vậy, những hành động thân tâm có khuynh hướng tạo ra những hành động giống nhau, rồi cứ như vậy những hành động kế tục cũng có khuynh hướng tương tự, tình trạng này được gọi là tiến trình thói quen (asevana). Như vậy, những hành động thiện, tốt, lành đi theo hướng tăng thêm nghiệp lành, trong khi đó những hành động bất thiện, xấu, ác sẽ thường xuyên tăng theo hướng tăng thêm nghiệp ác. Lời khuyên dạy của Phật trong “Kinh Pháp Cú” (Dhammapada) đã tóm tắt những bài học cần được rút ra bằng hành động sau khi đã học được Quy luật về Nghiệp, đó là:

 

Chớ khinh suất điều ác, nói: “Nó không đến mình”.

Ngay cả từng giọt nhỏ, nhỏ lâu cũng đầy bình.

Đừng như kẻ ngu dại, tích dần từng ‘giọt’ ác,

đến khi ác đầy mình.

(Bài kệ 121)

 

Chớ khinh suất điều thiện, nói: “Nó không đến mình”.

Ngay cả từng giọt nhỏ, nhỏ lâu cũng đầy bình.

Do vậy người có trí, tích cóp từng ‘giọt’ thiện,

đến khi thiện đầy mình.

(Bài Kệ 122)

 

 

Theo ngài Ledi Sayadaw: Khi Đức Phật tuyên thuyết rằng:

Tất cả chúng sinh đều là chủ nhân của những hành động của mình (kammasaka), là người thừa hưởng của những hành động của mình (kammadayada); chúng sinh khởi sinh (‘đầu thai’) từ những hành động của mình (kammayoni), chúng sinh đều liên quan với những hành động của mình, làm nơi nương tựa cho mình (kammapatisarana)”,

 

thì Đức Phật đã muốn dạy rằng, một khi những hành động (nghiệp), dù thiện hay bất thiện, đã được thực hiện, thì chúng sẽ chín muồi và tạo quả trong kiếp sống này hoặc cho đến trong một ngàn kiếp sau của vòng luân hồi, sanh tử. Những nghiệp xấu, tạo ra quả xấu và nghiệp tốt tạo quả tốt luôn luôn đi kèm với sự liên tục của sự sống. Vì thế, chúng sinh nên luôn luôn yêu quý và đề cao, tôn trọng đức hạnh hơn là sự sống của bản thân mình bằng cách thực hiện những việc làm công đức. Mặt khác, chúng ta nên tránh, bỏ những ác hành, tà hành, vốn còn nguy hiểm hơn cả sự chết, và chọn làm những điều tốt lành.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

11. Chú Giải  

 

Chú Giải 1:

Có 50 loại Hành trong tập hợp Hành Uẩn (Sankhara-khandha), trong đó Hành Ý Chí hay Ý Hành lại là một trong 50 Hành đó, và mối liên hệ giữa Ý Hành (cetana) và 49 Hành còn lại có thể được giải thích bằng ví dụ sau đây:

 

“Giả sử một bên sông có 49 cái thuyền hay xà-lan được chất đầy hàng hóa, và chỉ có một con tàu chạy bằng hơi nước có nhiệm vụ ‘kéo’ 49 xà-lan đó qua những bến sông khác. Bây giờ, những người đứng trên bờ có thể sẽ nói rằng: “Con tàu này sẽ kéo từng một xà-lan này, rồi xà-lan kia ra giữa dòng và đáp vào một bến sông kia, bến sông nọ”. Cũng giống như Ý Hành (cetana) đôi khi kéo Hành Tham (lobha) đi và tấp vào ‘bến’ của một đối tượng Tham. Đôi khi, tâm Hành lại kéo Hành Sân (dosa) ra khỏi bến và kéo đến đáp ở một ‘bến’ của đối tượng Sân.

Trường hợp tương tự có thể xảy ra cho bất kỳ hành nào trong 49 Hành trong nhóm Hành Uẩn (Sankhara-khandha) đó.”

 

Ý Hành (cetana) hay còn gọi là Hành Cố Ý hay Sở Hữu Tư có thể được so sánh như là một lớp trưởng hay một vị tướng quân. Lớp trưởng cũng phải học bài học và cùng lúc làm cho những học sinh khác trong lớp cùng học theo. Một tướng quân cũng chiến đấu và cùng lúc điều khiển quân lính cùng chiến đấu.

 

Trong quyển sách mang tên “Ahara Dipani” (có nghĩa là “Cẩm nang Hướng Dẫn về Thực dưỡng”, hay “Vật Thực” hay “Thức Ăn”), ngài Đại trưởng lão Mahathera Ledi Sayadaw đã diễn tả về sức mạnh lớn lao của Ý Hành (cetana) như sau:

“Pháp (dhamma) không ngừng thúc đẩy hay xui khiến tâm và những phần tử của tâm (tức các Hành khác -ND) luôn luôn không thể nằm yên, và luôn chạy theo nhiều đối tượng khác nhau, thì được gọi là Hành Ý Chí (cetana). Nó luôn cố gắng chắc chắn rằng: Tâm luôn chạy nhảy và biến hoạt chớp nhoáng. Khi một người gặp phải đối tượng Tham (lobha), chính Hành Ý Chí (cetana) ‘kéo’ hành Tham ra khỏi ‘bến đậu’ và ‘đẩy’ đến chỗ đối tượng Tham. Nó cũng thúc đẩyxui khiến ta vào khoái lạc giác quan hay dục lạc. Quá trình tương tự xảy ra đối với trường hợp của hành sân (dosa) và hành Si (moha)”.

 

“Người phàm thì chỉ có một ‘con tàu’ hay Hành Ý Chí rất nhỏ để mà thúc đẩy, để ‘kéo’ những xà-lan chở các hành Thành Tín (saddha), hành Trí Tuệ (panna), hành Bố Thí (dana), hành Giới Hạnh (sila), và hành Thiền định (bhavana). Khi gặp những hành tốt này, thì nó thúc đẩy, lôi ‘kéo’ hay xui khiến một cách rất yếu ớtchậm chạp. Phải có nhiều tác nhân hay hỗ trợ bên ngoài, chẳng hạn như: Sự quán chiếu về những hiểm họa bị đày địa ngục, để làm tăng thêm niềm thúc giục về tâm linh (samvega) và những lợi ích của việc tạo Nghiệp thiện, Nghiệp lành để mà Hành Ý Chí (cetana) mới thúc đẩy, lôi ‘kéo’, mới xui khiến hay điều khiển Tâm hướng đến những hành động tốt đó; bởi vì Tâm luôn có xu hướng tìm khoái lạc ở những chỗ xấu, ác. (Kinh Pháp Cú-Dhammapada 116).

 

“Một khi Hành Ý Chí (cetana) xui khiến một người đi đến những nơi người ấy khoái thích, nó hành động cực kỳ nhanh và mạnh mẽ. Nhưng nếu nó phải thúc đẩy, xui khiến hay lôi ‘kéo’ một người đến chỗ người ấy không thích tới, thì hành động cực kỳ chậm chạp và yếu ớt”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

12. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

 

1) “The Buddhist Doctrine of Kamma and Rebirth” (Học Thuyết Nghiệp Và Tái Sinh Của Phật Giáo), tác giả Đại trưởng lão Narada Maha Thera. Tái bản bởi “Hội Thiền Minh Sát Phật Giáo Selangor”, Petaling Jaya Malaysia, 1994.

 

2) “What Kamma Is?” (Nghiệp Là Gì?), tác giả ngài Sayadaw U Thittila, Ban Tôn Giáo Yangon, Myanmar, 1992.

 

3) “The Expositor” (“Attthasalini”) - (Luận Giảng Bộ Pháp Tụ - Dhammasangani), tác giả ngài Buddhaghosa (Phật Âm), bản dịch của Pe Maung Tin & Mrs. Rhys Davids, Hội Kinh Điển Pali (Pali Texts Society), London 1976.

 

4) “Manual of Right Views in the Manuals of Buddhism” (Cẩm Nang Hướng Dẫn Về Chánh Tri Kiến trong Cẩm Nang Phật Học), tác giả Đại trưởng lão Mahathera Ledi Sayadaw, Tiến Sĩ Văn Chương, người được chính phủ Myanmar trao danh hiệuAggamahapandita” (Đệ Nhất Hiền Giả). Bản dịch qua tiếng Anh của Ban Biên Tập Pháp Quang (Editors of the Light of the Dhamma), Bộ Tôn Giáo, Yangon, Myanmar.



[1]Thật ra, có một số giảng luận cho rằng trong đạo Phậtthực hiện được vấn đề thần giao cách cảm, tức là sự giao tiếp giữa các tâm với nhau hay sự chuyển giao tâm lẫn nhau (‘truyền tâm’). Tiếng Anh là: telepathy. Thật sự chưa có kinh điển nào nói rằng Đức Phật và những người khác đã từng thực hiện việc này. Việc Đức Phật và những nghười khác đã từng làm đó là việc đọc tâm (Cetopariyaya Nana, tiếng Anh: Mind Reading), chứ không phải là giao tiếp tâm hay thần giao cách cảm, chuyển giao tâm hay truyền tâm. Có lẽ chữ ‘truyền tâm ấn’ trong một số cách nói của một số thiền sư Đại Thừa cũng không mang ý nghĩa ‘truyền’ này – ND.

[2] Xin lưu ý, ở đây tất cả những chữ “Hành Ý Chí, Hành Cố Ý, Ý Hành, Hành Động Tạo Tác, Hành Động Cố Ý, Tâm Ý, Tâm Hành Ý Chí… đều có nghĩa tương đương nhau, đều diễn tả về một “hành động, hành vi cố ý của tâm, về “tâm Hành ý chí”, tức là một trong 50 tâm Hành thuộc tập hợp Hành Uẩn tạo nghiệp.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12509)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10400)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11664)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28831)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11459)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53089)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21413)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19262)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12429)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26058)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13329)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14395)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13142)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11619)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11632)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14518)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20495)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18673)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12201)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13876)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15049)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14003)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11410)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17206)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14988)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20226)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14631)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15076)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13007)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22902)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11676)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13179)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18355)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11511)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12896)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18439)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant