Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 23: Quán Về Điên Đảo

02 Tháng Tám 201000:00(Xem: 7024)
Phẩm 23: Quán Về Điên Đảo

TRUNG LUẬN 
(MADHYAMAKA SASTRA)
Tác giả: Nagaruna
Dịch và chú giải: HT Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản: TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM XXIII: QUÁN VỀ ĐIÊN ĐẢO.

(Gồm 24 bài kệ)

Hỏi:

1. Từ ức tưởng điên đảo phân biệt về tịnh bất tịnh mà sinh ra tham, sân, si, chúng đều từ các duyên phân biệt sinh.

Kinh nói nhân nơi tịnh bất tịnhđiên đảo ức tưởng phân biệt sinh ra tham, giận, si mê. Thế nên biết thật có tham, giận, si mê ?

Đáp:

2. Nếu nhân nơi tịnh bất tịnhđiên đảo ức tưởng phân biệt sinh ra ba độc, tức ba độc không có tự tính, nên phiền não không thật có.

Nếu các phiền não nhân nơi điên đảo ức tưởng phân biệt sinh, thời nó không có tự tính, thế nên các phiền não ấy không thật.

Lại nữa,

3. Ngã và pháp (chỉ phiền não) hoặc có hoặc không, việc ấy không thành; không có ngã thì các phiền não, có hoặc không, cũng không thành.

Ngã khôngnhân duyên để thành hoặc có hoặc không. Đã không có ngã thời các phiền não làm sao thành hoặc có, hoặc không được, vì sao ?

4. Vô ngã thì ai có phiền não ấy, thế thì phiền não không thành ; nếu lìa ngã mà có phiền não, thời phiền não ấy không có sở thuộc.

Phiền não là cái có khả năng làm não hại người khác. Kẻ làm não hại người khác đó là chúng sinh, song chúng sinh ấy tìm khắp mọi nơi không thể có được. Nếu lìa chúng sinhphiền não, thời phiền não không có chỗ sở thuộc. Nếu cho rằng tuy không có ngã, mà các phiền não sở thuộc về tâm. Nói vậy cũng không đúng, vì sao ?

5. Như tìm thân kiến theo năm cách, không thể có được. Phiền não đối với tâm cấu nhiễm, theo năm cách tìm nó cũng không thể có được.

Như thân kiến, theo năm cách tìm trong năm uẩn không thể có được, các phiền não cũng như vậy, theo năm cách tìm phiền não trong tâm nhơ cấu không thể có được; lại theo năm cách tìm tâm nhơ cấu trong các phiền não cũng không thể có được. (Giống như theo năm cách tìm Như lai trong năm uẩn không thể có được, đã nói ở trên).

Lại nữa,

6. Điên đảo đối với tịnh bất tịnh, nó không có tự tính, làm sao nhân hai điên đảo tịnh bất tịnh ấy mà sinh ra các phiền não.

Điên đảo về tịnh bất tịnh là, điên đảohư dối, nếu hư dối tức không có tự tính, không có tự tính thời không có điên đảo. Nếu khôngđiên đảo, vậy làm sao lại nhân điên đảo khởi lên các phiền não.

Hỏi:

7. Sắc, tiếng, mùi, vị, xúc và pháp là sáu thứ, sáu thứ này là cội gốc của ba độc.

Sáu nhập này v.v… là gốc của ba độc tham, giận, si, nhân sáu nhập đó mà sinh ra điên đảo về tịnh bất tịnh, nhân điên đảo về tịnh bất tịnh mà sinh tham, giận, si mê ?

Đáp:

8. Sắc, tiếng, mùi, vị, xúc và pháp thể sáu thứ, đều không, như sóng nắng, như giấc mộng, như thành Càn-thát-bà.

9. Như vậy trong sáu thứ ấy, đâu có tịnh và bất tịnh. Giống như người huyễn hóa, cũng như tượng trong gương.

Sắc, tiếng, mùi, vị, xúc, pháp; khi tự thể nó chưa hòa hiệp với tâm, thời là không, không có sở hữu, như sóng nắng, như mộng, như người biến hóa, như tượng trong gương, chỉ dối gạt tâm, chứ không có định tướng. Trong sáu nhập như vậy, đâu có tịnh bất tịnh.

Lại nữa,

10. Không nhân nơi tướng tịnh, thời không có tướng bất tịnh, nhân nơi tịnh mà có bất tịnh, thế nên không có bất tịnh.

Nếu không nhân nơi tịnh thì trước đó không có bất tịnh, vậy nhân đâu mà nói bất tịnh. Thế nên không có bất tịnh.

Lại nữa,

11. Không nhân nơi bất tịnh, cũng không có tướng tịnh; nhân nơi bất tịnh mà có tịnh, thế nên không có tịnh.

Nếu không nhân bất tịnh, thời trước đó không có tịnh, vậy nhân đâu mà nói tịnh, thế nên không có tịnh.

Lại nữa,

12. Nếu không có tịnh, thời do đâu mà có tham; nếu khôngbất tịnh, thời do đâu mà có giận.

Vì không có cảnh tịnhbất tịnh nên tâm không sinh tham, giận.

Hỏi: Kinh nói bốn điên đảo về chấp thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu vô thường mà thấy thường là điên đảo, còn nếu vô thường mà thấy vô thường, thời không phải điên đảo. Ba điên đảo kia cũng vậy, vì có điên đảo nên phải có người điên đảo; cớ sao nói không hết thảy ?

Đáp:

13. Nơi vô thường mà chấp thường là điên đảo; trong tính không, không có thường, thời chỗ nào mà có điên đảo chấp thường.

Nếu đối với vô thường mà chấp thường mới là điên đảo, còn đối với các pháp tính không, không có thường, thời trong đó chỗ nào có điên đảo chấp thường. Ba điên đảo kia cũng giống như vậy.

Lại nữa,

14. Nếu đối với vô thường mà chấp vô thường thì chẳng phải điên đảo; nhưng trong tính không, không có vô thường, thời đâu có phi điên đảo.

Nếu chấp vô thường mà nói vô thường, thời không gọi là điên đảo, nhưng trong các pháp tính không, không có vô thường. Vì vô thường không có, thì cái gì là phi điên đảo. Ba điên đảo kia cũng vậy.

Lại nữa,

15. Cảnh giới được chấp trước, người chấp trước, sự chấp trước và cách sử dụng chấp trước, đều là tướng tịch diệt, làm sao mà có chấp trước.

Bị chấp trước là vật, người chấp trướctác giả, chấp trước là nghiệp, pháp được dùng chấp trước gọi là việc sở dụng. Tất cả đều tính không, tướng vắng lặng. Như trong phẩm quán Như Lai nói. Thế nên không có chấp trước.

Lại nữa,

16. Nếu khôngpháp chấp trước, mà nói tà là điên đảo, nói chánh là không điên đảo, vậy ai có việc điên đảo, phi điên đảo như vậy.

Chấp trước gọi là ức tưởng phân biệt này, kia, có, không v.v… nếu không có sự chấp trước ấy, thì ai là tà điên đảo, ai là chánh không điên đảo.

Lại nữa,

17. Pháp có điên đảo không sinh điên đảo, pháp không điên đảo không sinh điên đảo ; người điên đảo không sinh điên đảo, người không điên đảo, không sinh điên đảo.

18. Ngay trong khi điên đảo cũng không sinh điên đảo. Ông hãy tự quán sát kỷ, ai sinh ra điên đảo.

Người đã điên đảo thời không còn sinh ra điên đảo, vì đã điên đảo rồi; người không điên đảo cũng không điên đảo, vì không có điên đảo. Ngay lúc điên đảo cũng không điên đảo, vì có hai lỗi. Ông hãy vứt bỏ tâm kiêu mạn, khéo tự quán sát, ai là người điên đảo.

Lại nữa,

19. "Thật tướng của các điên đảo là không sinh"; làm sao có nghĩa ấy, vì không có điên đảo, thời đâu có người điên đảo.

Vì lấy các lý do phá điên đảo, nên rơi vào kiến chấp cho điên đảo chẳng sinh. Người kia vì tham trước tướng chẳng sinh nên cho rằng chẳng sinh là thật tướng của điên đảo. Thế nên bài kệ nói: Làm sao gọi tướng chẳng sinh là thật tướng của điên đảo, cho đến pháp vô lậu còn không gọi là tướng chẳng sinh, huống gì điên đảo là tướng chẳng sinh, vì điên đảo không có, nên đâu có người điên đảo; nhân có điên đảo mới có người điên đảo.

Lại nữa,

20. Nếu ngã, thường, lạc, tịnh mà thật có, thời thường, lạc, ngã, tịnh chẳng phải là điên đảo.

Nếu ngã, thường, lạc, tịnh là bốn sự thậttự tính, thời ngã, thường, lạc, tịnh ấy không phải điên đảo, vì sao ? Vì nhất định có thật sự, làm sao nói điên đảo. Nếu cho thường, lạc, ngã, tịnh là bốn sự thật không có, thời vô thường, khổ, không, vô ngã là bốn điều thật có, không gọi là điên đảo, vì trái với điên đảo. Nhưng nếu không điên đảo là không đúng, vì sao ?

21. Nếu ngã, thường, lạc, tịnh mà thật không có, thời vô thường, khổ, bất tịnh cũng không thể có.

Nếu thường, lạc, ngã, tịnh; bốn sự ấy thật không có, vì thật không có nên bốn sự vô thường, khổ, không, vô ngã cũng không thể có, vì sao ? Vì không nhân nơi đối đãi nhau.

Lại nữa,

22. Các điên đảo như vậy diệt, thời vô minh cũng diệt, vì vô minh diệt nên các hành cũng đều diệt.

Như vậy, theo nghĩa ấy, vì diệt các điên đảo nên mười hai nhân duyênvô minhcăn bản cũng diệt, vì vô minh diệt nên ba thứ hành nghiệp cho đến già chết v.v… đều diệt.

Lại nữa,

23. Nếu tính phiền não thật có, mà có người nó thuộc vào (sở thuộc) thời làm sao dứt trừ và ai có thể dứt trừ tính ấy.

Nếu các phiền não tức là điên đảo mà có thật tính, thời làm sao dứt được và ai dứt được tính đó. Nếu nói các phiền não đều hư dối, không có tự tính, mà có thể dứt được cũng không đúng, vì sao ?

24. Nếu phiền não hư dối không có tự tính, không có người sở thuộc, thời làm sao dứt trừ, và ai có thể dứt trừ vô tính.

Nếu các phiền não hư dối không có tự tính, thời không có ai sở thuộc, làm sao dứt được, và ai có thể dứt cái không có tự tính.

*

Tóm tắt phẩm XXIII: Quán về điên đảo.

Sở dĩ gọi là Như Lai như phẩm trên là do dứt phiền não, phá điên đảo mà thành. Căn bản phiền não là tham, sân, si ba độc, cũng gọi là ba căn bản bất thiện, vì nó mà chúng sinh phải luân hồi sinh tử. Muốn giải thoát phải dứt trừ nó, nên hàng Thanh văn kiến chấp phiền nãođiên đảo là pháp có thật tính, song không biết rằng nếu nó có thật tính thời chẳng sinh chẳng diệt, thời làm sao dứt được; kỳ thật nó là như huyễn như hóa, tùy theo nhân duyên mà giả gọi là sinh diệt thôi. Như kinh A Hàm nói điên đảo sinh khởi là do sáu căn tiếp xúc đối sáu trầnvô minh và xúc tương ưng mà khởi lên chấp trước rồi sinh tham ái, như vậy điên đảotham áiduyên sinh, không có tự tính, là như huyễn. Chính kiến được như vậy, mới đạt đến giải thoát chơn thật.

điên đảo trước tướng nên đối với pháp vô thường chấp là thường, khổ chấp là lạc, vô ngã chấp là ngã, bất tịnh chấp là tịnh. Để đối trị bốn kiến chấp điên đảo ấy, Phật dạy quán vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, gọi là chánh quán. Song người vì tâm có sở đắc lại chấp có bốn điên đảo và bốn chơn chánh thật, vì vậy không được giải thoát chơn thật.

Phẩm này xét và phá các kiến chấp ấy gồm có: 1. Xét về phiền não chẳng sinh (kệ 1 đến kệ 12). 2. Xét về điên đảo chẳng thành (kệ 13 đến kệ 21).3. Tổng kết thành phiền não diệt (kệ 22 đến kệ 24)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15563)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 14998)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13262)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14445)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20201)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18423)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30754)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12417)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15520)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13755)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13928)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13529)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14450)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16729)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15383)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18822)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 14991)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14591)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14574)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13787)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19695)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14435)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14518)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14715)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14761)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17913)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13564)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13688)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14946)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14154)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16423)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15324)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13486)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13147)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13265)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12987)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14083)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14722)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14217)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14610)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13001)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13808)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13261)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13742)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14687)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14756)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13275)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12834)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13737)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13672)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13325)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13886)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13692)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12591)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14813)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12875)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12446)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant