Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 22: Quán Về Như Lai

02 Tháng Tám 201000:00(Xem: 6949)
Phẩm 22: Quán Về Như Lai

TRUNG LUẬN 
(MADHYAMAKA SASTRA)
Tác giả: Nagaruna
Dịch và chú giải: HT Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản: TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM XXII: QUÁN VỀ NHƯ LAI.

(Gồm 16 bài kệ)


Hỏi: Các bậc tôn quí trong thế gian chỉ có đức Như Lai Chánh Biến Tri có hiệu là Pháp vương, bậc Nhất thiết trí; thế là thật có Như Lai ?

Đáp: Nay hãy suy nghĩ kỷ nếu thật có thời nên chấp thủ, nếu không thật có thời chấp thủ gì, vì sao? Vì Như Lai là:

1. Như Lai chẳng phải tức năm uẩn, chẳng phải lìa năm uẩn, Như Lai không ở trong năm uẩn, năm uẩn không ở trong Như Lai, Như Lai không có năm uẩn. Vậy chỗ nào có Như Lai.

Nếu Như Lai thật có, thì chính năm uẩnNhư Lai, hay lìa năm uẩnNhư Lai; hay trong Như Lainăm uẩn, trong năm uẩnNhư Lai; hay Như Lainăm uẩn ? Hết thảy đều không đúng.

Năm uẩn chẳng phải là Như Lai, vì sao ? Vì năm uẩn có tướng sinh diệt, nếu Như Lainăm uẩn, tức Như Lai là tướng sinh diệt, nếu có tướng sinh diệt tức Như Lai có bị lỗi là vô thường đoạn diệt. Lại người chấp thọNhư Lai, pháp chấp thọ là năm uẩn, nếu người chấp thọpháp chấp thọ là một là không đúng. Thế nên Như Lai chẳng phải là năm uẩn.

Lìa năm uẩn cũng không có Như Lai, vì nếu lìa năm uẩnNhư Lai, thời Như Lai không có tướng sinh diệt. Nếu như vậy, Như Lai có cái lỗi là thường còn. Lại nếu Như Lai thường còn, thời Như Lai không thể dùng các căn mắt, tai v.v… để thấy biết, nhưng việc ấy không đúng, (vì Như Lai vẫn có thấy biết). Thế nên biết lìa năm uẩn cũng không có Như Lai (nếu Như Lai thường như hư không thời không có sự thấy biết).

Lại trong Như Lai cũng không có năm uẩn, vì nếu trong Như Lainăm uẩn thời như trong đồ đựng có hoa trái, trong nước có cá, thế thời Như Lainăm uẩn khác nhau. Nếu khác nhau thời mắc phải lỗi Như Lai thường như trên. Thế nên biết trong Như Lai không có năm uẩn.

Lại trong năm uẩn cũng không có Như Lai, vì nếu trong năm uẩnNhư Lai thời như trên giường có người, trong đồ đựng có sữa. Có khác như vậy, nên cũng mắc phải lỗi như trên. Thế nên biết trong năm uẩn không có Như Lai.

Lại Như Lai cũng không có năm uẩn, vì nếu Như Lainăm uẩn như người có con; như vậy Như Lainăm uẩn khác nhau, nếu như vậy thì mắc phải lỗi như trên. Thế nên biết Như Lai không có năm uẩn.

Như vậy theo năm cách ấy tìm Như Lai không thể có được, vậy thế nào là Như Lai.

Hỏi: Theo năm cách tìm Như Lai không thể có được như vậy, nhưng năm uẩn hòa hiệp là có Như Lai ?

Đáp:

2. Nhân năm uẩn hòa hợpNhư Lai. Vậy Như Lai không có tự tính; nếu khôngtự tính, thời làm sao nhân nơi tha tính mà có được.

Nếu Như Lai do năm uẩn hòa hiệp mà có, tức là Như Lai không có tự tính, vì sao ? Vì nhân năm uẩn hòa hiệp mà có.

Hỏi: Như Lai không do tự tính mà có, chỉ nên do nơi tha tính mà có ?

Đáp: Nếu khôngtự tính, thời làm sao nhân tha tính mà có. Vì tha tính cũng không có tự tính. Lại vì không nhân nơi đối đãi nhau, nên tha tính cũng không có. Vì không có nên không gọi là tha.

Lại nữa,

3. Nếu pháp nhân tha tính mà sinh khởi, tức là chẳng phải có tự ngã, nếu pháp chẳng phải tự ngã, thời làm sao gọi đó là Như Lai.

Nếu pháp do các duyên sinh, tức không có tự ngã, như do năm ngón mà có nắm tay, nắm tay ấy không có tự thể. Như vậy do năm uẩn hòa hiệp gọi là ngã, ngã ấy không có tự thể. Ngã có nhiều tên gọi, hoặc gọi chúng sinh, trời, người, Như Lai v.v… nếu Như Lai do năm uẩn hòa hiệp mà có, tức Như Lai không có tự tính, không có tự tính nên không có ngã, nếu không có ngã làm sao nói có Như Lai. Thế nên trong bài kệ nói: “Nếu pháp do cái khác sinh ra, tức chẳng có ngã; nếu pháp chẳng có ngã, làm sao nói Như Lai”

Lại nữa,

4. Nếu khôngtự tính, thời làm sao có tha tính, lìa tự tính và tha tính, thời làm sao gọi là Như Lai.

Nếu khôngtự tính, thời tha tính cũng chẳng thể có. Vì nhân tự tính nên gọi là tha tính, cái này không có nên cái kia không có. Thế nên tự tính tha tính đều không có. Nếu lìa tự tính tha tính, thời gì là Như Lai.

Lại nữa,

5. Nếu không nhân nơi năm uẩn, trước đã có Như Lai, do nay chấp thọ năm uẩn, nên gọi đó là Như Lai.

6. Nay thật sự khi không chấp thọ năm uẩn, thời không có pháp Như Lai. Nếu vì không chấp thọ năm uẩn nên không có Như Lai, thời nay làm sao chấp thọ.

7. Nếu khi Như Lai chưa có chấp thọ năm uẩn, thời năm uẩn bị chấp thọ ấy không gọi là chấp thọ, không thể có thứ pháp không chấp thọ mà gọi là Như Lai.

8. Nếu tìm Như Lai trong nhất thể dị thể không thể có được, theo năm cách tìm trong năm uẩn cũng không có, vậy làm sao lại có trong chấp thọ.

9. Lại năm uẩn bị chấp thọ không từ tự tính nó có, nếu khôngtự tính, thời làm sao có tha tính.

Nếu nói khi chưa chấp thọ năm uẩn trước đã có Như Lai, Như Lai ấy nay chấp thọ năm uẩn rồi, là thành Như Lai, nhưng kỳ thật khi chưa chấp thọ năm uẩn, trước đây không có Như Lai, thời làm sao bây giờ, chấp thọ năm uẩn lại có Như Lai. Lại không người chấp thọ năm uẩn, thời năm uẩn không gọi là pháp chấp thọ; không thể có thứ pháp không chấp thọ mà gọi là Như Lai. Lại tìm Như Lai trong tự tính tha tính và theo năm cách tìm Như Lai trong năm uẩn đều không thể có được. Nếu như vậy làm sao nói trong năm uẩnNhư Lai được; lại năm uẩn bị chấp thọ không từ tha tính mà có. Nếu bảo từ tha tính mà có, nhưng nếu không từ tự tính mà có, thời làm sao từ tha tính mà có được, vì sao? Vì không có tự tính nên tha tính cũng không.

Lại nữa,

10. Do các nghĩa như vậy, pháp chấp thọ không, người chấp thọ không, làm sao lấy "không" mà nói rằng "không" là Như Lai.

Theo nghĩa đó suy nghĩ, pháp năm uẩn bị chấp thọNhư Lai là người chấp thọ đều không, nếu người chấp thọ không, làm sao lấy năm uẩn chấp thọ không ấy, mà gọi "không" là Như Lai (trái với trên kia chấp "có" là Như Lai).

Hỏi: Luận chủ bảo “pháp chấp thọ tính không, người chấp thọ tính không”, vậy thời nhất định có cái không ấy ư ?

Đáp: Không đúng, vì sao ?

11. Pháp “Không” (không có tự tính) thời không thể nói, pháp phi không cũng không thể có được, cũng không cũng phi không và chẳng phải không chẳng phải phi không, đều không thể nói, nên chỉ theo giả danh mà nói thôi.

Các pháp không thời không thể nói, các pháp chẳng không cũng không thể nói, các pháp không và chẳng không cũng không thể nói, các pháp chẳng phải không chẳng phải bất không cũng không thể nói, vì sao ? Vì chỉ để phá sự trái ngược nhau nên giả danh mà nói. Suy nghĩ chánh quán như vậy thời biết đối với thật tướng các pháp, không thể dùng các vấn nạn để nạn vấn.

Vì sao ?

12. Trong tướng tịch diệt không có bốn tướng: thường, vô thường, cũng thường cũng vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Trong tướng tịch diệt không có bốn tướng ; là biên, vô biên, cũng biên cũng vô biên, chẳng phải biên chẳng phải vô biên.

Thật tướng các pháp là vi diệu tịch diệt, chỉ do đối với đời quá khứ, khởi lên bốn thứ tà kiến, cho rằng thế gian thường, thế gian vô thường, thế gian nữa thường nữa vô thường, thế gian chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chứ trong thật tướng tịch diệt không có việc ấy, vì sao ? Vì thật tướng các pháp là rốt ráo thanh tịnh không thể chấp thủ. Đối với pháp không còn không chấp thủ, huống gì có bốn tà kiến, bốn thứ tà kiến đều nhân nơi chấp thọ mà sinh, thật tướng các pháp không có chỗ chấp thọ. Bốn thứ tà kiến đều cho quan điểm mình là quí, quan điểm người khác là hèn, còn thật tướng các pháp không có kia đây. Thế nên trong tướng tịch diệt, không có bốn tà kiến.

Như đối với đời quá khứ khởi bốn tà kiến, đối với đời vị lai khởi bốn tà kiến cũng như vậy, nào là thế gian hữu biên, thế gian vô biên, thế gian vừa hữu biên vừa vô biên, thế gian chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên.

Hỏi: Nếu phá Như Lai như vậy, thời không có Như Lai ư ?

Đáp:

13. Người tà kiến sâu dày, thời nói không có Như Lai, Như Lai tướng tịch diệt, phân biệt nói có cũng sai.

Tà kiến có hai thứ: 1. Là phá cái vui thế gian, 2. Là phá đạo Niết-bàn. Phá cái vui thế giantà kiến thô, nói rằng không có tội phước, không có quả báo tội phước, không có Thánh Hiền, Như Lai; khởi lên tà kiến ấy bỏ lành làm ác, đó là phá cái vui thế gian. Phá đạo Niết-bàn là tham đắm ngã, phân biệt có không, khởi tâm làm thiện diệt ác, làm thiện nên được cái vui thế gian, phân biệt có không nên không được Niết-bàn. Thế nên nếu nói không có Như Lai, đó là tà kiến sâu dày, cái vui thế gian còn mất, huống gì Niết-bàn. Nếu nói có Như Lai cũng là tà kiến, vì sao ? Vì Như Lai tướng tịch diệt, mà lại phân biệt ra đủ thứ có, không, thường, đoạn v.v… thế nên ở trong tướng tịch diệt, mà phân biệtNhư Lai, cũng là tà kiến.

14. Đối với tính không như vậy, tư duy cũng không thể được. Sau khi Như Lai diệt độ, mới phân biệt nói có, nói không.

Thật tướng các pháp là tính không, nên không nên đối với Như Lai sau khi diệt độsuy nghĩ phân biệt hoặc có, hoặc không, hoặc cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải không. Như Lai từ trước lại đây rốt ráo không, huống gì sau khi diệt độ.

15. Như Lai siêu việt hý luận, mà người đời cứ sinh hý luận, hý luận phá mắt tuệ, thế nên không thấy Phật.

Hý luận là ức tưởng chấp thủ tướng, phân biệt kia đây, nói rằng Phật diệt độ, không diệt độ v.v… người ấy vì bị hý luận che khuất mắt tuệ, nên không thấy pháp thân Như Lai. Trong phẩm Như Lai này, ở đầu phẩm, giữa phẩm, cuối phẩm, tư duy tìm định tính Như Lai, không thể có được.

Thế nên kệ nói:

16. Tính sở hữu của Như Lai là tính sở hữu của thế gian. Như Lai không có tự tính, nên thế gian cũng không có tự tính.

Trong phẩm này, suy lường tìm kiếm thấy tính Như Lai tức là tính hết thảy thế gian.

Hỏi: Thế nào là định tính Như Lai ?

Đáp: Như Lai không có tự tính, như thế gian không có tự tính.

*

Tóm tắt phẩm XXII: Quán về Như Lai.

Phẩm quán Như Lai và phẩm Quán Điên đảo, phẩm Quán Tứ đế, phẩm Quán Niết-bàn tiếp sau có liên hệ với nhau. Như Lai là người có khả năng phá điên đảo, có khả năng chánh quán Tứ đế, có khả năng chứng đắc Niết-bàn, còn điên đảopháp bị phá, Tứ đế là pháp được chính quán tu tập, Niết-bàn là pháp được chứng đắc. Như Lai (Tathagata) theo Trí độ luận có nghĩa là “như pháp tướng mà diễn nói, như pháp tướng mà ngộ giải, như pháp tướng mà đi đến”. Thật tính Như Lai cũng là thật tính của các pháp, là pháp không tính, không có tướng hý luận, tùy duyên hiện khởi nên có thể nói có Như Lai đản sinh, Như Lai xuất gia, đắc đạo, thuyết pháp. Song các ngoại đạo và những người khác không hiểu như vậy, trái lại theo ngoại đạo xem Như Lai cũng như thần ngã, Hữu bộ xem Như Lai chỉ là giả ngã do năm uẩn hòa hợp, Độc tử bộ thì xem Như Lai bất khả thuyết ngã, tất cả kiến chấp ấy, đều sai lầm, nên phẩm này xét phá.

Phẩm này có: 1. Quán riêng về người chấp thọ năm uẩnNhư Lai tính không (kệ 1 đến kệ 8). 2. Xét riêng về pháp chấp thọ là năm uẩn tính không (kệ 9,10). 3. Thế đế giả danh (kệ 11). 4. Thắng nghĩa đế không thể nghĩ bàn (kệ 12 đến kệ 16).

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15564)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 14998)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13262)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14445)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20203)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18423)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30754)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12418)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15520)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13755)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13928)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13529)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14451)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16729)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15383)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18822)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 14991)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14592)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14576)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13787)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19695)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14436)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14519)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14715)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14763)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17913)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13565)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13689)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14947)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14155)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16423)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15324)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13486)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13147)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13265)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12987)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14083)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14723)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14217)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14610)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13001)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13808)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13261)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13742)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14687)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14757)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13275)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12834)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13737)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13672)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13325)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13886)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13693)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12591)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14813)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12875)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12446)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant