Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 24: Quán Về Tứ Đế

02 Tháng Tám 201000:00(Xem: 6823)
Phẩm 24: Quán Về Tứ Đế

TRUNG LUẬN 
(MADHYAMAKA SASTRA)
Tác giả: Nagaruna
Dịch và chú giải: HT Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản: TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM XXIV: QUÁN VỀ TỨ ĐẾ.

(Gồm 40 bài kệ)


Hỏi: Phá bốn điên đảo, thông đạt bốn đế, chứng được bốn quả Sa-môn 

1. Nếu hết thảy đều rốt ráo không, không sinh cũng không diệt, như vậy thời không có pháp bốn Thánh đế.

2. Vì không có bốn Thánh đế, nên các việc thấy khổ, dứt tập, chứng diệt, và tu đạo đều không có.

3. Vì các việc ấy không có, nên không có bốn Thánh quả; vì không có bốn Thánh quả, nên người chứng đắc Thánh quả và người hướng đến chứng đắc Thánh quả, cũng không có.

4. Nếu không có tám bậc Hiền Thánh, thời không có Tăng bảo; vì không có bốn Thánh đế nên cũng không có Pháp bảo.

5. Vì không có Pháp bảo Tăng bảo, nên cũng không có Phật bảo. Như vậy, người nói không, là người phá hoại Tam Bảo ?

Nếu tất cả thế gian đều không, không có tính sở hữu, tức là không sinh không diệt, vì không sinh không diệt thời không có bốn Thánh đế, vì sao ? Vì từ tập đế sinh khổ đế. Tập đế là nhân, khổ đế là quả, diệt khổ tập đế thời gọi là diệt đế, pháp môn tu hành đưa đến diệt đế gọi là đạo đế. Đạo đế là nhân, diệt đế là quả, như vậy bốn đế có nhân có quả. Nếu không sinh không diệt thời không có bốn đế, bốn đế không có thời không có việc thấy khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo. Việc thấy khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo không có, thời không có bốn quả Sa-môn; bốn quả Sa-môn không có, thời không có bốn hướng bốn đắc quả. Nếu không có tám bậc Hiền Thánh ấy thời không có Tăng bảo. Lại vì bốn đế không có, thời Pháp bảo cũng không có. Nếu khôngPháp bảo, Tăng bảo thời làm sao có Phật bảo. Ngộ được pháp gọi là Phật, không có pháp thời đâu có Phật. Vậy ông nói các pháp đều không, thời phá hoại Tam Bảo.

Lại nữa,

6. Nói pháp rốt ráo không, là phá hoại nhân quả, tội phước, cũng phá hoại tất cả pháp tắc sự nghiệp của thế gian.

Nếu tín thọ pháp không, thời phá hoại tội phước và quả báo tội phước, cũng phá hoại pháp thế tục. Vì có các lỗi như vậy, nên các pháp không thể không ?

Đáp:

7. Hiện tại ông thật sự không hiểu tướng không, không hiểu nhân duyên vì sao mà không, và cũng không hiểu ý nghĩa không, nên mới tự sinh ra ưu não.

Ông không hiểu thế nào là tướng không, vì nhân duyên gì mà nói không, cũng không hiểu nghĩa không. Vì không thể như thật biết rõ nghĩa không, nên sinh ra nghi nạn như thế.

Lại nữa,

8. Vì chúng sinh, chư Phật nương theo hai đế để thuyết pháp: 1. Thế tục đế. 2. Đệ nhất nghĩa đế.

9. Nếu người đối với hai đế mà không biết, không phân biệt, thời không biết được nghĩa chơn thật của Phật pháp sâu xa.

Thế tục đế là hết thảy pháp tính không, mà vì thế gian điên đảo, nên sinh ra pháp hư dối, đối với thế gian thì cho pháp hư dối đó là thật, còn đối với các Hiền Thánh đã như thật biết tính điên đảo, nên biết tất cả pháp đều không, không sinh. Đối với Thánh nhân thì Đệ nhất nghĩa đế này là thật. Các đức Phật nương theo hai đế, vì chúng sinhthuyết pháp. Nếu người không thể đúng như thật phân biệt hai đế, thời không hiểu được thật nghĩa của Phật pháp sâu xa. Nếu bảo rằng hết thảy pháp chẳng sinh là Đệ nhất nghĩa đế, không cần đệ nhị tục đế, nói như vậy không đúng, vì sao ?

10. Nếu không nương theo tục đế, thời không được Đệ nhất nghĩa đế, không được Đệ nhất nghĩa đế, thời không được Niết-bàn.

Đệ nhất nghĩa đều nhân nơi ngôn thuyết, mà ngôn thuyếtthế tục, thế nên, nếu không nương thế tục đế thời không thể nói Đệ nhất nghĩa. Nếu không ngộ được Đệ nhất nghĩa, thời làm sao đến được Niết-bàn. Thế nên các pháp tuy không sinh mà có hai đế.

Lại nữa,

11. Vì căn tính ám độn không có khả năng chánh quán pháp không, nên tự hại, như người không giỏi chú thuật, không rành bắt rắn độc.

Nếu người căn tính ám độn không khéo hiểu pháp không, vì sai lầm đối với không, nên sinh ra tà kiến. Như vì lợi mà bắt rắn độc, nhưng không rành cách bắt, trở lại bị rắn hại. Lại như muốn sử dụng chú thuật mà không rành, trở lại bị chú thuật làm hại. Người căn tính ám độn quán pháp không, cũng như vậy.

Lại nữa,

12. Đức Thế Tôn biết rõ tướng pháp này rất sâu xavi diệu, chẳng phải người căn tính ám độn biết kịp, nên Ngài không muốn nói.

Đức Thế Tôn vì pháp sâu xa vi diệu, không phải là chỗ hiểu được của hàng căn tính ám độn, nên không muốn nói.

Lại nữa,

13. Ông cho rằng tôi chấp trước "không", nên vì tôi mà sinh ra lỗi lầm, nhưng những lỗi lầm mà ông đang nói đó, đối với không, hoàn toàn không có.

Ông cho rằng tôi chấp trước "không tính" nên vì tôi mà sinh ra lỗi lầm, song không tính mà tôi nói, thì không ấy cũng không, nên không có các lỗi như vậy.

Lại nữa,

14. Do có nghĩa không, nên tất cả các pháp được thành tựu, nếu khôngnghĩa không, thời tất cả các pháp không thành.

Vì có nghĩa không nên tất cả các pháp thế gianxuất thế gian đều thành tựu, nếu khôngnghĩa không, thời tất cả đều không thành tựu.

Lại nữa,

15. Hiện nay chính ông tự có lỗi mà lại đổ qua cho tôi, chẳng khác nào người cỡi ngựa, tự quên con ngựa mình đang cỡi.

Ông đối với pháp có, có lỗi mà không tự biết, lại thấy lỗi nơi pháp không tính, khác nào người cỡi ngựa mà quên mất con ngựa mình đang cỡi, vì sao?

16. Nếu ông thấy các pháp quyết địnhtự tính, tức là thấy các pháp không có nhân, cũng không có duyên.

Ông nói các pháp có định tính, nếu như vậy thời là thấy các pháp không nhân không duyên, vì sao ? Vì nếu pháp đã quyết địnhtự tính rồi, thời không sinh không diệt, như vậy đâu cần nhân duyên. Còn nếu các pháp từ nhân duyên sinh, thời không có tự tính, trái lại các pháp quyết địnhtự tính thời không từ nhân duyên sinh. Vậy nếu nói các pháp quyết địnhtự tính, là không đúng, vì sao ?

17. (Nếu các pháp có tự tính) như thế tức là phá hoại nhân quả, phá hoại việc làm, người làm, pháp làm. Lại cũng phá hoại tất cả sự sinh diệt của muôn vật.

Nếu các pháp có định tính thời không có nhân quả v.v… như kệ nói:

18. Pháp do các duyên sinh, ta nói tức là không, cũng là giả danh, và cũng là nghĩa trung đạo.

19. Chưa từng có một pháp nào mà không từ nhân duyên sinh. Thế nên hết thảy pháp, không pháp nào mà chẳng là không.

Pháp do nhân duyên sinh, Ta nói tức là không, vì sao ? Vì phải đầy đủ các duyên hòa hiệp thì pháp mới khởi, pháp ấy thuộc các nhân duyên, nên không có tự tính, vì không tự tính nên "không". Không cũng lại không, chỉ vì dắt dẫn chúng sinh nên mượn danh tự để nói (nên nó cũng là "giả danh"); lìa hai bên có, không, nên gọi là "trung đạo". Vì pháp ấy không có tự tính nên không được nói có, cũng vì không có "không" nên không được nói không có. Nếu pháp có tự tính tướng, thời không đợi các duyên mới có; nhưng nếu không đợi các duyên thời không có pháp. Thế nên không có pháp nào mà chẳng không. Trên kia ông cho rằng pháp "không" có lỗi, lỗi ấy nay trở lại nơi ông, vì sao ?

20. Nếu hết thảy pháp chẳng không (tức là có định tính), thời không có sinh diệt. Như vậy, thời cũng không có pháp bốn Thánh đế.

Nếu hết thảy pháp mỗi mỗi đều có tự tính chứ chẳng không, thời không có sinh diệt, vì không có sinh diệt, thời không có pháp tứ Thánh đế, vì sao ?

21. Nếu không từ duyên sinh, làm sao mà có khổ; vô thường nghĩa là khổ; nếu pháp quyết địnhtự tính, thì không có vô thường (tức là không có khổ đế).

Nếu không từ duyên sinh thời không có khổ, vì sao ? Vì kinh nói vô thường là khổ (không từ duyên sinh tức là không có vô thường, không có vô thường thời không có khổ). Trái lại nếu khổ có định tính thời làm sao có vô thường, vì nó không bỏ tính cố định của nó.

Lại nữa,

22. Nếu khổ đã có tính quyết định, thời vì cớ gì phải từ tập đế sinh, thế nên không có tập đế, vì đã phá hoại nghĩa không (hoặc dịch: vì phá hoại nghĩa không, nên cho khổ có định tánh, khổ đã có định tánh, thì vì sao lại phải từ tập đế sinh, thế nên không có tập đế).

Nếu khổ có tính nhất định thời không thể lại phát sinh, vì trước đã có rồi. Nếu khổ đã có như vậy, thời không có tập đế, vì phá hoại nghĩa không. (tức là cho khổ đã có định tính chứ chẳng phải không).

Lại nữa,

23. Khổ nếu có tính quyết định, thời không thể có tiêu diệt. Ông chấp trước khổ có định tính, tức là phá hoại diệt đế.

Khổ nếu có định tính thời không thể diệt, vì sao ? Vì định tính thời không biến mất.

Lại nữa,

24. Khổ mà có định tính, thời không có con đường tu (để dứt khổ), nếu có con đường có thể tu tập, thế tức là không có định tính.

Nếu các pháp nhất định thật có thời không có việc tu đạo, vì sao ? Vì pháp thật có thời là thường, thường thời không thể tăng thêm. Nếu Đạo có thể tu, thời Đạo không có định tính.

Lại nữa,

25. Nếu khôngkhổ đế, và không có tập đế, diệt đế, thời đạo đếthể diệt hết khổ, rốt ráo (cuối cùng) đưa đến chỗ nào.

Các pháp nếu trước đã có định tính, thời không có khổ, tập, diệt đế, vậy hiện tại con đường diệt khổ, cuối cùng đưa đến chỗ diệt khổ nào ?

Lại nữa,

26. Nếu khổ quyết địnhtự tính, từ trước lại đây đã không thấy được (tự tính khổ), thời nay làm sao lại thấy được, vì tính của khổ trước sau không đổi khác.

Nếu trước đây khi còn là phàm phu không thể thấy khổ đế, thì nay dẫu có tu đạo cũng không thế thấy, vì sao ? Vì cái tính khổ đế không thể thấy ấy đã quyết định rồi.

Lại nữa,

27. Giống như sự thấy khổ không hợp lý, sự chấm dứt nguồn gốc khổ, sự chứng đắc tịch diệt Niết-bàn, sự tu đạo và bốn quả vị Thanh văn cũng đều không hợp lý.

Như tính khổ đế trước khi tu không thể thấy, sau khi tu cũng không thể thấy, như vậy cũng không thể có việc dứt tập, chứng diệt, tu đạo, vì sao ? Vì cái tính của tập đế từ trước lại đây không dứt, nay cũng không thể dứt, vì tính nó cố định không thể dứt. Diệt đế từ trước lại đây không chứng, nay cũng không thể chứng; vì từ trước lại đây không chứng. Đạo từ trước lại đây không tu, nay cũng không thể tu, vì từ trước lại đây không tu. Thế nên bốn sự tu hành thấy, dứt, chứng, tu đối với bốn Thánh đế đều không thể có. Vì bốn hành không có, nên bốn đạo quả cũng không có, vì sao ?

28. Thể tính của bốn đạo quả ấy, từ trước lại đây chưa hề chứng đắc, thời nay làm sao lại có thể chứng đắc, vì nếu các pháp đã có thể tính nhất định.

Các pháp nếu có định tính, thời bốn quả Sa-môn từ trước lại đây không chứng được, nay làm sao chứng được, nếu có chứng được, thời biết các pháp không có tính quyết định.

Lại nữa,

29. Nếu không có bốn Thánh quả, thời không có người đắc quả và người hướng đến đắc quả. Như vậy, vì không có tám bậc quả Thánh thời không có Tăng bảo.

Vì không có bốn quả Sa-môn, thời không có người chứng đắc quả và người đang hướng đến chứng đắc quả, vì không có tám bậc Hiền Thánh như vậy, thời không có Tăng bảo. Song Kinh nói tám bậc Hiền Thánh là Tăng.

Lại nữa,

30. Vì không có bốn Thánh đế, nên cũng không có Pháp bảo, không có Pháp bảo, Tăng bảo, làm sao có Phật bảo.

Tu tập bốn Thánh đế chứng được Niết-bàn, nếu khôngbốn Thánh đế thời không có Pháp bảo. Nếu khôngTăng bảo Pháp bảo thời không có Phật bảo. Vậy ông lấy các lý do để nói rằng các pháp có định tính, là ông phá hoại Tam Bảo.

Hỏi: Tuy luận chủ phá đổ các pháp, nhưng đạo rốt ráoquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải có, nhân nơi đạo ấy nên gọi là Phật ?

Đáp:

31. Cứ theo như ông nói, không nhân nơi Bồ-đề tâm mà có Phật, cũng không nhân nơi Phật mà có Bồ-đề.

Ông nói các pháp có định tính, thời không nhân Bồ-đề tâm mà có Phật, không nhân Phật mà có Bồ-đề, vì hai tính Bồ-đề và Phật đã có định tính thường còn.

Lại nữa,

32. Tuy siêng năng tinh tấn tu hành đạo Bồ-đề. Nhưng nếu trước đó không có Phật tính (Bồ-đề tâm), thời không thể được thành Phật.

Vì trước không có định tính, như sắt không có tính vàng, thì dầu luyện nấu đến mấy cũng không thành vàng.

Lại nữa,

33. Các pháp nếu là chẳng không, thời không có người tạo tội phước, vì tính nó đã cố định chẳng không, thời đâu có tạo tác gì được nữa.

Nếu các pháp chẳng không, thời trọn không có người làm tội phước, vì sao ? Vì tính tội phước đã có sẵn rồi. Lại không có tác nghiệptác giả.

Lại nữa,

34. Ông cho rằng trong tội phước không sinh ra quả báo, thế thời lìa ngoài tội phước có các quả báo sao ?

Theo ông đối với nhân duyên tội phước không có quả báo, vậy có thể lìa ngoài nhân duyên tội phước có quả báo, vì sao ? Vì quả báo không đợi phải có nhân mới sinh ra.

Hỏi: Lìa ngoài tội phước có thể khôngquả báo thiện ác, nhưng từ tội phước mà có quả báo thiện ác ?

35. Nếu cho rằng từ tội phước sinh ra quả báo, như vậy quả báo từ tội phước xuất sinh, làm sao nói quả báo chẳng không (tức là quả báođịnh tính).

Nếu lìa ngoài tội phước thì không có quả báo thiện ác, nhưng từ tội phước mà có quả báo thiện ác, như vậy làm sao nói quả báo chẳng không. Thế nên ông nói các pháp chẳng không, là không đúng.

Lại nữa,

36. Ông phá đổ nghĩa không của tất cả pháp do nhân duyên sinh, thời đó là phá đổ tất cả những gì hiện có của thế tục.

Nếu ông phá Đệ nhất nghĩa không của pháp do nhân duyên sinh, thời phá hết thảy pháp thế tục, vì sao ?

37. Nếu phá đổ nghĩa không (tức cho pháp có định tính), tức có thể không có làm gì, tuy không làm mà vẫn có làm, chính cái không làm đó là tác giả.

Nếu phá nghĩa không, thời tất cả kết quả đều không có tạo tác, không có nguyên nhân. Lại không làm mà có làm. Lại tất cả tác giả đều là người không làm gì. Lại lìa ngoài tác giả có thể có nghiệp, có quả báo và có người thọ quả báo. Nhưng các việc ấy đều không đúng, thế nên không nên phá không (những gì thuộc nhân duyên sinh nhất định có tạo tác, những gì không có tạo tác tức là có tự tính, không do nhân duyên sinh. Nếu cho rằng các pháp thật có tự tính, tức là không tạo tác gì, mà lại thấy thế gian có làm phước, làm tội, như vậy là tự tính không tạo tác mà lại có tạo tác, chẳng khác nào người không làm tội mà là tác giả của tội, người không đi buôn mà là thương gia, người không làm phước là tác giả của phước v.v…, trái lại người không tạo phước lại hưởng quả phước v.v…).

Lại nữa,

38. Nếu cho pháp có tính quyết định, thời các tướng trạng thế gian chẳng sinh chẳng diệt, thường trú không biến hoại.

Nếu các pháp có định tính, thời mọi tướng trạng thế gian như trời, người, súc sinh, vạn vật đều chẳng sinh chẳng diệt, thường trú không hoại, vì sao ? Vì đã có thật tính không thể biến đổi sai khác. Nhưng hiện thấy vạn vật mỗi mỗi đều có tướng biến đổi, sinh diệt biến dịch. Thế nên các pháp không thể có định tính.

Lại nữa,

39. Nếu khôngnghĩa không, thời đạo quả chưa chứng đắc không thể chứng đắc, cũng không có sự dứt phiền não, cũng không có việc sạch hết khổ.

Nếu khôngpháp không tính, thời đối với các công đức của thế gianxuất thế gian, người chưa có được đều không thể có được, cũng không có người dứt phiền não, cũng không có sự khổ hết, vì sao ? Vì đã có định tính.

40. Thế nên trong kinh nói: Nếu thấy pháp nhân duyên, thời có thể thấy Phật và thấy khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.

Nếu người nào thấy hết thảy pháp từ các duyên sinh, thời người ấy có thể thấy Phật pháp thân, tăng thêm trí tuệ thấy bốn Thánh đế khổ, tập, diệt đạo, thấy bốn Thánh đế chứng được bốn Thánh quả, dứt các phiền não. Thế nên không nên phá nghĩa không; nếu phá nghĩa không thời phá pháp nhân duyên sinh, phá pháp nhân duyên sinh thời phá Tam Bảo, nếu phá Tam Bảo là tự phá mình.

*

Tóm tắt phẩm XXIV: Quán về Tứ đế.

Bốn đế là giáo lý cương yếu của Phật pháp, là chơn lý mà Như Lai chánh quán tu tập để diệt trừ bốn thứ điên đảophiền nãochứng đắc Niết-bàn. Bốn đế chỉ duyên khởi tính không, chứ không phải có thật tính như hàng Thanh văn chấp. Phẩm này cốt bàn rõ nghĩa đó.

Trong 27 phẩm của Trung luận, phẩm Tứ đếtrọng yếu nhất, còn các phẩm kia là tùy theo chỗ kiến chấp mà phá trừ, chứ không nhất định. Vì vậy nếu hiểu được Tứ đế là hiểu được toàn bộ giáo lý Phật. Phẩm này chủ yếu phá trừ vọng chấp các pháp thật có tự tính để chỉ bày các pháp tính không chân thật, thành lập các pháp chỉduyên khởi như huyễn. Có không tính mới thành duyên khởi ra các pháp, không có không tính thì không thành duyên khởi ra các pháp. Vì vậy khi thuyết minh về tính không, không có nghĩa là phá hoại hết thảy pháp mà chính hàm ý là thành lập hết thảy pháp, chứ không phải phủ định hết tất cả. Vì không khéo hiểu nghĩa không, nên mới vội cho rằng không tức là hư vô, là không có gì cả như lông rùa sừng thỏ. Đây là một thứ ác kiến rất nguy hiểm, rơi vào hố thẳm, hoài nghi luận, ngụy biện luận, khó giải thoát được. Phẩm này cốt nêu rõ pháp tính không tịch và bốn đế không đối lập nhau giữa Đại Tiểu thừa.

Phẩm này gồm có: 1. Trách luận chủ nói không có Tứ đế (kệ 1 đến kệ 5). 2. Trách luận chủ cho khôngnhân quả tội phước (kệ 6). 3. Luận chủ trách lại và chỉ rõ không tính (kệ7). 4. Chỉ bày Tông yếu của Phật pháp (kệ 8 đến kệ 10). 5. Nêu bày pháp tính không khó hiểu (kệ 11 đến kệ 14). 6. Chấp có thành sai (kệ 15 đến kệ 17). 7. Chứng thành nghĩa trung đạo (kệ 18,19). 8. Phá hoại Tứ đế (kệ 20 đến kệ 25). 9. Việc phá hoại Tứ đế (kệ 26 đến kệ 28). 10. Phá hoại Tam Bảo (kệ 29, 30). 11. Nêu riêng về Phật đạo không thành (kệ 31,32). 12. Phá hoại nhân quả tội phước (kệ 33 đến kệ 35). 13. Phá hoại hết thảy pháp thế tục (kệ 36 đến kệ 38). 14. Kết thành Phật pháp (kệ 39,40).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27178)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21767)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20054)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24750)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18988)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24761)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30974)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23987)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27764)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26511)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21314)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23224)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38127)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19045)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23168)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23879)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22800)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22910)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29572)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20641)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18857)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19678)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20153)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19954)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22932)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16918)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39245)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26068)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20098)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18851)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24060)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29140)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22902)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30958)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21008)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26851)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20678)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26266)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23324)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24675)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30037)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20221)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23890)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant