Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I: Tổng Luận

19 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9756)
Chương I: Tổng Luận

LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC TÁNH KHÔNG

Thích Tâm Thiện
Nhà Xuất Bản TP. Hồ chí Minh 1999

Chương I 
Tổng Luận

Nói đến triết học Phật giáo là nói đến một hệ thống tư tưởng vô cùng uyên áo và đa diện. Bởi lẽ, trong quá trình truyền bá chánh pháp, từ thời Phật giáo Nguyên thủy (1) đến Phật giáo Bộ pháiPhật giáo Phát triển (Mahayana), đã xuất hiện nhiều học thuyết hoặc về Phật giáo, hoặc có liên quan đến Phật giáo, mà những học thuyết hay hệ tư tưởng đó thường có những điểm bất đổng. Tất nhiên, lý do của những điểm bất đổng phần lớn là tùy thuộc vào mức độ tâm chứng khác nhau. Ðiều này được nhìn thấy rõ qua các lần kết tập kinh điển (2). Tỉ dụ, lần thứ nhất, đại biểu kết tập gổm 500 vị A La Hán ; lần thứ hai, 700 vị A La Hán ; lần thứ ba, 1.000 vị Tăng sĩ được tuyển chọn ; và, lần thứ tư, 500 vị học giả. Từ đó, cho thấy rằng, càng về sau, các bậc Thánh trí (A La Hán) càng giảm dần, thế có nghĩa là năng lực trí tuệ - tâm chứng, một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc giải minh giáo lý của Phật (3) của các nhà Phật học đang trên đà suy giảm. Từ đó, chánh pháp, thay vì "phải trực nhận", "phải tự mình thể nghiệm", lại được đưa ra để thảo luận, nghĩa là phải viện vào ngôn ngữ. Và, khi ngôn ngữ trở nên quan trọng, đóng vai trò trung tâm, thì các nhà luận giải thường bị quá đà. Và, càng đi xa trong việc diễn dịch, thì càng xa rời những giáo huấn vốn bình dị, chân phương và thực tiễn đi vào dòng tâm thức thế gian mà Phật đã dạy. Do đó, có thể nói rằng chính những quan điểm bất đổng trong việc giải minhcắt nghĩa giáo huấn của Phật mà phát sinh các học thuyết, quan niệm khác nhau về Phật giáo. Ðiều này, một mặt làm cho giáo nghĩa trở nên phong phú, đa diện ; nhưng mặt khác, nó làm nhân cho sự phân hóa giáo đoàn Phật giáo ; và có khi xa rời hẳn bản ý của Phật (4). Vì thế, trong việc nghiên cứu triết học Phật giáo ngày nay, không thể chỉ thuần túy dựa vào lịch sử phát triển của Phật giáo, mà phải đi theo tiến trình tư tưởng. Thông qua tiến trình tư tưởng này, chúng ta có thể tìm hiểu triết học Phật giáo một cách chính xác và dễ dàng (5). Ðây là lý do tại sao các nhà Phật học chuyên môn khi đánh giá, nhận định về tư tưởng triết học Phật giáo thường dùng đến "nguyên tắc" phân kỳ (6), như là một phương pháp phân tích và bình phẩm về triết học sử Phật giáo. Ðặc biệt là đối với Phật giáo Trung Hoa, bên cạnh "nguyên tắc" Phân kỳ, lịch sử còn có một hệ thống phân kỳ giáo nghĩa được gọi bằng danh từ "Phán giáo". Và hệ thống Phán giáo của Phật tử Trung Hoa có thể được xem là một sáng tạo lớn trong việc giải minh các hệ thống triết học Phật giáo. Nó được bắt đầu từ thời Tống (thời đại Nam Bắc triều, 317-589) ; thông qua việc nghiên cứu kinh Niết Bàn mà ngài Ðạo Sinh đề xuất học thuyết "Ðốn ngộ thành Phật", ngài Tuệ Quán đề xuất học thuyết "Ðốn tiệm bất định". Và học thuyết của Tuệ Quán (7) được xem là một trong những học thuyết đầu tiên trong việc khai sáng hệ thống phán giáo, và ông trở thành người tiên phong trong các hệ thống phán giáo của Phật học Trung Hoa. Sự kiện này đã ảnh hưởng lớn lao đến các tông - phán giáo sau này (8).

Ở đây, khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng - triết học Tánh Không, hẳn nhiên chúng ta phải dựa vào các học thuyết phân kỳ để minh định tiến trình của nó. Song, trong tự thân của các học thuyết phân kỳ lại có những điểm tương đổng, dị biệt. Vì thế, trên nguyên tắc, một phần nào đó phải dựa vào tiến trình lịch sử, mà ở đây, khởi nguổn từ Ấn Ðộ, hay nói đúng hơn là từ Phật giáo thời Nguyên thủy. Ðây là điểm nhất quán và luôn luôn được đánh giá cao bởi các nhà Phật học chuyên môn. Vì lẽ, kinh tạng Phật giáo Nguyên thủy thường được xem là cội nguổn của tư tưởng triết học Phật giáo, dù bất kỳ lúc nào và ở đâu. Ðó chính là những bộ kinh được kiết tập từ ký ức của các vị thánh A La Hán. Và, những gì được ghi lại ở đây là những lời dạy rõ ràng, chân xác, minh bạch từ lời dạy của Phật cho từng đối tượng khác nhau và trong từng thời điểm khác nhau. Những giáo lý như Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Tam pháp ấn, Duyên khởi - Vô ngã v.v..., nó vừa là nền tảng lại vừa là đỉnh cao của tư tưởng triết học Phật giáo. Và cũng chính những giáo lý này được xem là khuôn vàng thước ngọc cho việc giải kiến tất cả quan điểm Phật học trong mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực văn hóavăn minh Phật giáo. Từ đó, có thể kết luận rằng, tạng thư Nikàya chính là cội nguổn của lịch sử tư tưởng triết học Phật giáo. Cho đến tất cả kiến giải triết học về sau đều có ảnh hưởng sâu đậm đến cội nguổn này.

Cũng vậy, tư tưởng triết họcTánh Không, theo quan điểm của các nhà Ðại thừa (Mahayanists) như trong truyền thống, cho rằng nó được khai sinh từ văn hệ Bát Nhã, một hệ thống kinh tạng Ðại thừa phát sinh từ Ðại chúng bộ (Mahàsamghikà), lần đầu tiên xuất hiện tại miền Nam Ấn, trung tâm truyền bá tư tưởng của Phật giáo Phát triển (Mahayana Buddhism). Nhưng thực chất, dòng triết học này vốn đã được thai nghén từ trong kinh tạng Nikàya (9) trên nền móng cơ bản của những giáo lý Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường... Trong suốt thời gian, từ khởi nguyên cho đến khi trở thành một hệ tư tưởng triết học đặc thù, mọi luận thuyết đều phải trải qua nhiều giai đoạn, như khởi nguyên, hệ thống hóa, độc lập hóa v.v... Ðiều này được nhìn thấy rõ ràng qua các mốc lịch sử phân kỳ ; tương tự như thế đối với lịch sử tư tưởng triết học Tááánh Không. Nó được phát khởi từ những lời dạy mộc mạc, cụ thể của Phật. Ðến sau khi Phật diệt độ, nó tiếp tục được vừa sàng lọc, vừa phát triển qua các giai đoạn của Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Bộ phái và đỉnh cao là Phật giáo Mahayana. Và tạng thư đầu tiên được hình thành của Phật giáo Mahayana chính là hệ thống kinh tạng Bát Nhã ; và tư tưởng trung tâm của nó là Tánh Không (Sunyàta).

Nhưng tại sao Tánh Không lại xuất hiện như một trào lưu tư tưởng mới mẻ và táo bạo, để phủ nhận mọi quan điểm triết học đa nguyên-thực tại-luận, vốn được xem là đối đầu với nó ? Ðiều này, một cách nào đó, được giải thích rõ qua nội dung của lịch sử phân kỳ mà phần sau chúng ta sẽ bàn đến.

Nếu căn cứ trên bình diện lịch sử, tư tưởng Phật giáo Mahayana được xuất hiện một cách tiệm tiến từ Phật giáo Bộ phái, cho đến thời đại của vua Asoka (10) và kế đó là vua Kaniska, thì tư tưởng Ðại thừa - Bát Nhã đã bước đầu hình thành (11). Và từ đó, hàng loạt kinh điển thuộc Ðại thừa giáo xuất hiện, như kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka), kinh Duy Ma, kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, kinh Pháp Hoa, và các kinh thuộc phần giáo Tịnh độ. Và, trong mỗi bộ kinh đều hàm chứa một nội dung độc lập ; tuy nhiên, về mặt giáo nghĩa, các bộ kinh đó chỉ bỗ sung cho nhau và hoàn toàn không hề chống trái, mặc dầu có khá nhiều học thuyết khác biệt. Song, như đã nói ngay từ đầu, sự khác biệt và bao dung đó chỉ là tính cách đa diện của pháp (xuất hiện như "pháp nhĩ như thị") (12) mà thôi. Chẳng hạn, học thuyết trung tâm của Bát Nhã là "vọng tâm duyên khởi" ; của Hoa Nghiêm là "chân tâm duyên khởi" ; ở Duy Ma là "bất nhị" ; ở Pháp Hoa là "khai thị ngộ nhập" và "Tam thừa đổng nhất" v.v...

Tuy nhiên, đối với Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duy Ma, Lăng Nghiêm v.v..., thì sự truyền bá của nó được thích ứng hóa vào đời sống triết lý thời đại một cách ôn hòa ; ở đây, tuyệt nhiên không có bất kỳ một sự phản ứng nào. Trái lại, đối với Bát Nhã, sự xuất hiện của nó như là một hệ tư tưởng mới lạ, phủ dẫm mọi định kiến, học thuyết cỗ điển, mọi luận thuyết thời danh trong truyền thống ; tựa hổ như ngọn sóng thần từ đại dương mênh mông, bôỵng phút chốc hiện hữu, đã xóa nhòa mọi cơ đổ gập ghềnh được xây dựng từ nghìn năm trên bãi cát trắng bao la. Tánh Không của Bát Nhã giáng xuống thời đại như một thứ sấm sét trong đêm tối cô liêu, làm cho tất cả hiện hữu của muôn ngàn dị biệt đa thù trong thinh không chợt hóa hiện rổi lại chìm vào tăm tối. Mọi vật như đến rổi đi, như sinh rổi diệt, như có rổi không. Chỉ trong một tích tắc, mọi sự thể của trần gian đều hóa thành mộng mị, hư ảo, và mọi nguyên lý bôỵng trở thành phi lý. Ðó là một thứ phi lý được bắt nguổn từ dòng sống thực tại, một thứ thực tạiTam đoạn luận (Syllogism) của Aristotle (13) bị bẻ gãy ngay trong thành ngữ "Không ai có thể đặt chân hai lần trên cùng một dòng nước " (14) của Héraclite. Ðó là thực tại toàn chân, một thực tại bất khả thuyết bởi ngôn ngữ, vượt lên trên mọi định kiến hoặc thường hằng, hoặc là đoạn diệt. Bởi lẽ, đối diện với Tánh Không có nghĩa là đối diện trước một sự thách thức vĩ đại, mà con người chỉ có thể hoặc là buông bỏ mọi cơ đổ của tự ngã để thể nhập thực tại Tánh Không, hoặc là nghìn năm phiêu bổng trong thế giới của hư vô không tận. Tánh Không là như thế ! Bao lâu con người còn cố gượng bám víu lấy một sự thể nào, một ý niệm về một sự thể nào, cho đến ngay cả cái ý niệm về thế giới ý niệm, thì khi đó y vẫn chìm đắm trong tuyệt vọng khỗ đau.

Do đó, có thể nói rằng, lịch sử của tư tưởng triết học Táánh Không ra đời là một sự chuyển y (Àsrayaparàvrtti) kỳ vĩ nhất trong lịch sử - tư tưởng triết học Phật giáo. Tiếng nói đầu tiên của nó là "Nhất thiết pháp không" (15), nhằm phủ nhận một cách trọn vẹn thế giới quan đa nguyên-thực tại ; mà trước đó, đã một thời ngự trị trên dòng sông triết học cỗ đại Ấn Ðộ thời bấy giờ. Rổi sau đó, chính nó là chất xúc tác để hàng loạt hệ thống tư tưởng hậu Ðại thừa xuất hiện. Vì thế, khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng triết học Tánh Không, hẳn phải bắt đầu từ thế giới quan Phật giáo thời Nguyên thủy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12527)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10435)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12384)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11695)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28854)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12081)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13044)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11487)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12411)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17489)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53149)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35544)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21481)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10709)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19324)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12456)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26099)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13357)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14423)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16116)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13759)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16889)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17636)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13178)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12559)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11649)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11658)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14547)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20520)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19052)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19647)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18733)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12227)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12369)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13915)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15096)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15085)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14027)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15552)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11425)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17231)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15021)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20285)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14655)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13908)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11768)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15101)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13040)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22922)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14589)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11705)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13207)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16932)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18396)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11968)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11531)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15899)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12917)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18963)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18495)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant