Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển Thứ 3

06 Tháng Giêng 201508:49(Xem: 10071)
Quyển Thứ 3

QUYỂN THỨ BA

 

CHƯƠNG THỨ BẢY

NÓI RÕ QUẢ BÁO 

Ngày nay Đại chúng  đồng nghiệp trong Đạo tràng trước đã thuật rõ tội báo của ác nghiệp. Vì hoạn lụy của ác báo cho nên trái với nghiệp thù thắng tốt đẹp. Vì ác nghiệp nên phải đọa trong ba đường dữ trải khắp ác thú và sanh ra ở nhơn gian để chịu trả quả báo đau khổ. Quả báo đau khổ như thế đều do nhơn duyên tức đối đời trước đem lại. Bây giờ xả thân nầy chịu thân khác để chịu trả quả báo mãi mãi không thôi.

Bởi thế chư Phật và chư Đại Bồ tát dùng sức thần thông thiên nhãn, thấy hết thảy chúng sanh trong ba cõi khi hết phước rồi, cứ theo nghiệp báo mà đọa vào các chỗ khổ. Thấy chúng sanh từ cõi trời vô sắc giới do tâm đắm trước thiền định. Thoạt vậy mạng chung, hết phước đọa xuống cõi trời dục giới.Vì hết phước nên cũng có khi đọa làm cầm thú. Những chúng sanhcõi trời sắc giới, khi hết phước cũng phải sa đọa như vậy. Từ chỗ thanh tịnh đọa xuống dục giới là chỗ không thanh tịnh vì ở chỗ không thanh tịnh nên trở lại thọ lấy dục lạc. Chúng sanh ở sáu cõi trời dục giới khi hết phước đọa xuống địa ngục chịu vô lượng khổ.

Chư Phật và Bồ tát lại thấy chúng sanh ở trong nhơn đạo, nhờ sức tu thập thiện được sanh làm người. Ngay trong thân người cũng có lắm khổ khi mạng chung phần nhiều lại đọa vào các đường ác.

Lại thấy chúng sanh trong đường súc sanh chịu lắm khổ não, bị đánh đập xua đuổi, chở nặng, đi xa, đau đớn khốn khổ, trày vai trợt cổ, sắt nóng thiêu thân.

Lại thấy chúng sanh trong đường ngã quỉ thường bị đói khát khổ sở, bị lửa thiêu thân như ở thời mạt kiếp. Nếu không nhờ một mảy căn lành để cứu vớt thì vĩnh kiếp không thể giải thoát. Nếu có được chút phước thì được sanh lên làm người nhưng thân hình ốm yếu, nhiều tật bệnh và sống yểu chết non.

Vậy Đại chúng nên biết thiện ác như hai bánh xe theo nhau chưa từng tạm nghỉ thì quả báo cũng do đó mà liên tiếp không thôi, xoay vần như sợi dây xích chuyền nối mãi mãi.

Sang hèn giàu nghèo đều tùy hạnh nghiệp của mỗi người mà chịu trả quả báo.

Không phải sang hèn như vậy mà không có nguyên nhơn, không lẽ vô cớ mà có quả báo sang hèn như vậy, thì rất phi lý.

Trong kinh Phật dạy rằng:

- Làm người, giàu sang, quốc vương, trưởng giả là do cái nhơn đời trước lễ bái phụng sự Tam bảo mà ra.

- Làm người giàu có to lớn là do cái nhơn đời trước bố thí mà ra.

- Làm người sống lâu là do cái nhơn đời trước không sát sanh mà ra.

- Làm người đoan chánh là do cái nhơn đời trước nhẫn nhục mà ra.

- Làm người siêng tu là do cái nhơn đời trước không biếng nhác mà ra.

- Làm người có tài ba sáng suốt, hiểu rộng thấy xa là do cái nhơn đời trước tu trí huệ mà ra.

- Làm người có âm thanh trong trẻo là do cái nhơn đời trước ca vịnh tán thán Tam bảo mà ra.

- Làm người sạch sẽ không tật bệnh là do cái nhơn đời trước từ tâm mà ra.

- Làm người thân hình cao lớn tốt đẹp là do cái nhơn đời trước kính nhường người mà ra.

- Làm người thân hình thấp hèn nhỏ bé là do cái nhơn đời trước khinh khi người mà ra.

- Làm người thân hình xấu xa là do cái nhơn đời trước hay giận hờn mà ra.

- Làm người vô tri, không hiểu biết gì hết là do cái nhơn đời trước không học hỏi mà ra.

- Làm người ngu xuẩn đần độn là do cái nhơn đời trước không dạy bảo người mà ra.

- Làm người câm ngọng là do cái nhơn đời trước hay hủy báng người mà ra.

- Làm người hay bị kẻ khác sai khiến là do cái nhơn đời trước mắc nợ người không trả mà ta.

- Làm người da đen xấu xí là do cái nhơn đời trước che ánh sáng quang minh của Phật mà ra.

- Làm người sinh vào nước lõa hình là do cái nhơn đời trước ăn mặc quần áo mỏng manh suồng sã, cho mình là hơn người mà ra.

- Làm người sanh vào nước móng ngựa là do cái nhơn đời trước đi giầy dép tưởng mình là hơn người, dành đi trước mà ra.

- Làm người sanh vào nước xuyên ngực là do cái nhơn đời trước bố thí làm phước, rồi sanh tâm hối hận tiếc của mà ra.

- Làm người sanh trong loài hưu nai là do cái nhơn đời trước dọa nạt người, làm người khiếp sợ mà ra.

- Làm người sanh trong loài rồng là do cái nhơn đời trước ưa dỡn cợt múa nhảy mà ra.

- Làm người thân hình sinh lở ghẻ dữ là do cái nhơn đời trước ưa đánh đập chúng sanh mà ra.

- Làm người được người thấy mình liền sanh tâm hoan hỷ là do cái nhơn đời trước mình thấy người cũng sanh tâm hoan hỷ.

- Làm người hay bị quan bắt giam cầm là do cái nhơn đời trước hay bắt giam cầm chúng sanh trong lồng trong chậu mà ra.

- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm loạn động tâm người khác, sau sẽ đọa trong loài chó trập tai.

- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà không để ý nghe cho hiểu sau sẽ đọa trong loài lừa dài tai.

- Làm người tham ăn một mình, keo rít, bỏn xẻn, sau sẽ đọa loài quỉ đói. Hết kiếp quỉ đói sanh ra làm người bần cùng đói khát.

- Làm người đem đồ ăn dở cho kẻ khác, sau sanh làm heo lợn loài bọ hung.

- Làm người hay cướp giựt của kẻ khác, sau đọa làm dê, bị kẻ khác lột da ăn thịt.

- Làm người ưa trộm cướp của kẻ khác, sau đọa làm trâu ngựa, bị người sai khiến.

- Làm người ưa nói vọng ngữ, tuyên truyến điều xấu của kẻ khác, sau đọa địa ngục, bị quỉ sứ rót nước đồng sôi vào miệng, kéo dài lưỡi ra cho trâu cày. Tội hết rồi, người ấy sanh làm chim cù dục, chim cú, người nghe tiếng nó kêu, ai cũng sợ hãi, cho là yêu quái, đều nguyền rủa cho nó chết.

- Làm người ưa uống rượu say, sau đọa vào địa ngục phất sí (nước phẩn sôi trào). Tội hết rồi người ấy sanh vào loài tinh tinh. Hết nghiệp tinh tinh, được sanh làm người, ngoan độn, ngu si, không ai đếm sỉa đến.

- Làm người tham lường sức mạnh của kẻ khác, sau sẽ đọa làm voi.

Than ôi!địa vị giàu sang, làm người trên trước mà đánh đập kẻ dưới. Kẻ dưới không biết thưa kiện với ai. Những người như thế, chết vào địa ngục, kể cả ngàn vạn năm, chịu quả báo đau khổ.

Từ địa ngục ra, lại đọa làm trâu, bị xâu xỏ mũi miệng dắt thuyền kéo xe, roi gậy to lớn đánh đập khổ sở, để đền lại nợ oan trái ngày xưa.

Lại nữa, người ăn ở dơ bẩn là từ trong loài heo mà đầu thai ra.

Người xan tham keo kiết, không tự xét mình là từ trong loài chó mà đầu thai ra.

Những người gầm gừ, tự dụng một mình là từ trong loài dê mà ra.

- Người có tánh táo bạo, nóng nảy, không hay nhẫn nhục là từ trong loài khỉ, vượn, hầu mà đầu thai ra.

- Người có thân hình tanh hôi là từ trong loài cá trạnh mà đầu thai ra.

- Người có tâm thâm hiểm, độc ác là từ trong loài rắn độcđầu thai ra.

- Người không có từ tâm tàn nhẫn, bạo hại, là từ trong loài hổ báo, sài langđầu thai ra.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, đã sanh ra làm người trong thế gian bị nhiều bệnh, chết sớm, biết bao thống khổ không thể kể xiết, như thế là do ba nghiệp gây ra, nên khiến người “tu hành” phải mắc lấy quả báo trong ba đường dữ.

Sở dĩba đường dữ là vì có tham sân si. Vả lại cũng vì có ba độc tham sân si ấy mà người tự thiêu đốt lấy mình, miệng thường nói ác, tâm thường nghĩ ác, thân thường làm ác.

Do các điều ác ấy làm cho thân người thường chịu các khổ não, không cùng tận. Đến khi mạng chung, hồn côi bơ vơ. Mình làm mình chịu, cha mẹ vợ con không thể cứu được.

Thoạt vậy trong nháy mắt, đến chốn Diêm vương, ngưu đầu, ngục tốt ở trong địa ngục không kể tôn ti, chỉ xét sổ tội phước, kiểm điểm nặng nhẹ, thiện ác nhiều ít, trong lúc sanh tiền đã làm thế nào thì thần thức tự thú tội, không dám che giấu. Do vì nhơn duyên ấy nên phải theo nghiệp mà chịu trả quả báo, đến chỗ khổ hay vui là do mình làm mình chịu mờ mờ mịt mịt ly biệt lâu dài, đường ai nấy đi, không bao giờ gặp nhau trở lại.

Vả lại, các vị thiên thần ghi chép thiện ác của người không thiếu sot mảy may. Người thiện làm lành được phước thêm tuổi, người ác làm dữ, giảm thọ thêm khổ. Cứ xoay vần như vậy, mãi mãi rồi lại đọa làm quỉ đói. Hết kiếp quỉ đói, thoát ra làm súc sanh. Tội khổ vô lượng không thể chịu nổi, không bao giờ cùng.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều nên phải tự tỉnh ngộ mà sanh tâm hổ thẹn.

Trong kinh Phật dạy rằng: “Làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ”. Nhưng trong đời ngũ trược ác thế, chúng ta không nên làm ác; làm lành không mất quả lành, làm ác tự rước lấy tai họa.

Chớ cho khinh thoát lập ra pháp sám nầy.

Kinh dạy rằng: “Chớ khinh điều thiện nhỏ cho là không phước, giọt nước tuy nhỏ, chảy lâu cũng đầy bát to”.

Không chứa thiện nhỏ lấy gì có phước to để thành Thánh thành Phật, chớ khinh ác nhỏ mà nói là không có tội. Ác nhỏ chứa lại lâu ngày cũng đủ mất thân.

Đại chúng nên biết: Lành dữ họa phước đều do tâm tạo. Nếu không tạo nhơn thì không có kết quả. “Ương họa chứa lại, tội thành to lớn”. Chúng ta mắt thịt không thể thấy. Đó là lời Phật dạy ai dám không tin.

Chúng con đã cùng nhau vô phước, sanh vào đời mạt pháp, nếu không siêng năng học tập tu hành, không tự sức mình làm lành đến phút cuối cùng, tắt thở, khi ấy ăn năn đã muộn. Tuy vậy bây giờ đã cùng nhau thấy biết hết thảy tội lỗi như trong kinh đức Phật đã dạy: Người đã biết tội mình há lại không biết bỏ ác theo lành hay sao?

Đời nay nếu không dụng tâm xả thân cầu đạo quyết phải đọa địa ngục. Vì sao mà biết?

Vì trong lúc làm tội ôm lòng độc ác, mạnh mẽ nóng nảy, giận hờn, gắt gao, sâu sắc. Như giận một người nào quyết muốn cho người ấy chết. Nếu ghét một người nào, không ưa thấy điều tốt của người ấy. Nếu hủy báng một người nào, quyết khiến cho người ấy lâm cảnh vào cảnh khổ. Nếu đánh một người nào, quyết khiến cho người ấy đau đớn thấu trời thấu đất.

Khi giận hờn tàn bạo tai hại thì không kể tôn ti thượng hạ, dùng lời xấu hổ, mắng nhiếc đủ điều; có khi la vang như sấm dậy, mắt như lửa đổ. Còn khi làm phước thì thiện tâm rất yếu ớt. Lúc đầu muốn làm nhiều, sau lần lần giảm ít lại.

Lúc đầu muốn kinh doanh cho mau chóng, sau lại thả lỏng buông trôi.

Tâm đã không chí quyết ngày tháng trôi qua, lần lượt tới lui cho đến khi quên mất việc thiện là xong. Xét như thế thì biết lúc làm tội tâm lực rất mãnh liệt cường thạnh; lúc làm phước thì chí ý bạc nhược yếu hèn.

Nay đem cái nhơn làm phước yếu hèn ấy mà cầu xa lìa quả báo làm ác mãnh liệt cương cường kia thì không thể được.

Kinh dạy rằng: “Sám hối thì tội gì cũng tiêu diệt hết”.

Nhưng than ôi! Đến lúc sám hối, quyết phải đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất như núi Thái sơn sụp đổ, không tiếc thân mạng mới mong diệt được tội.

Vì diệt được tội nên phải ân cần, thành khẩn cùng nhau xét mình từ khi sanh ra cho đến ngày nay đã gây ra bao nhiêu tội lỗi. Phải tự xét trách như thế mới không tiếc thân mạng, chịu khó nhọc mà sám hối.

Nếu tạm thời nhiễu Phật liền sanh tâm mỏi mệt, chán nản, tạm thời lễ bái liền nói sức lực không kham; hoặc tạm thời ngồi ngay tỉnh niệm, liền nói nên phải có tin tức chứng ngộ gì. Hoặc nói không nên làm cho thân thể quá mỏi mệt, phải cần dưỡng, không được làm khổ thân.

Vừa nằm xuống ngủ liền mê man như chết, không bao giờ tưởng nhớ đến việc ta phải lễ Phật quét tháp, quét chùa làm những việc khó làm.

Vả chăng, kinh có dạy rõ ràng:

“Chưa từng có một mảy may thiện nào từ sự giải đãi lười biếng mà sanh ra; chưa từng có một chút phước nào từ sự kiêu mạn, tự do tự đắc mà được”.

Đệ tử chúng con tên . . .  tuy được làm thân người, nhưng tâm hay trái đạo, vì sao mà biết? Vì từ sớm đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối đến sáng. Cho đến không có một thời giờ một khắc, một niệm, một khoảnh nào mà chúng con để tâm nhớ tưởng Tam bảo, nghĩ nhớ lý tứ đế, cũng không có một chút tâm nào nghĩ nhớ báo ơn cha mẹ, không có một chút tâm nào nghĩ nhớ báo ơn Sư trưởng; Không có một chút tâm nào muốn bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, không có một chút tâm nào muốn học thiền định, muốn tu trí huệ.

Nay thử đem kiểm điểm lại các pháp thanh bạch thì chúng con không có một pháp nào đáng kể.

Trái lại những phiền não trọng chướng thì không biết bao nhiêu mà kể, đầy tai đầy mắt.

Nếu không kiểm soát như thế thì chúng con cũng tự hào rằng: công đức của chúng ta rất nhiều. Nếu có làm được chút việc thiện gì thì nói ta hay làm người khác không hay làm; ta hay tu người khác không hay tu; ý chí cao ngạo, xem nhưmục hạ vô nhơn”, quanh mình không còn ai nữa.

Xét lại mà nghĩ, thật là đáng xấu hổ.

Nay đối trước Đại chúng, chúng con xin sám hối các tội lỗi ấy, mong Đại chúng hoan hỷ bố thí cho, tương lai không còn chướng ngại nữa.

Đại chúng cũng nên tự rửa sạch thân tâm. Theo sự trình bày quả báo như trước đã thuật đủ thì không thể tự khoan dung mà không cầu xả bỏ tội lỗi.

Đại chúng chớ nói ta không có các tội ấy, ta đã vô tội, cần gì sám hối. Nếu Đại chúng có nghĩ như thế, nguyện xin từ bỏ ngay tâm niệm ấy đi. Phải chăng bao nhiêu lầm lỗi vi tế đã kết thành tội lớn đại.

Thoạt vậy giận, hờn, sân tâm liền khởi tập thành tánh quen, khó có thể sửa đổi mau chóng, không thể buông tâm phóng ý mà không ngăn ngừa.

Nếu hay đè nén nhẫn nhịn thì phiền não có thể trừ. Người nào giải đãi lười biếng, buông lung thì không thể tế độ được.

Đệ tử chúng con tên . . .  ngày nay mong nhờ sức từ bi hộ niệm của chư Phật, chư đại Bồ tát sức bổn thệ nguyện lực mà nói kinh: ‘TỘI NGHIỆP, BÁO ỨNG, ĐỊA NGỤC’ nên chúng con hết lòng lắng nghe.

“Ta nghe Đức A Nan thuật lại như thế nầy: Một hôm Phật ở tại thành Vương xá, trong núi Kỳ xà quật, cùng với chư Đại Bồ tát ma ha tát, các vị Thanh vănquyến thuộc của các Ngài đông đủ; cũng có các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư thiên, quỉ thần, thảy đều đến dự hội đông đủ”.

Lúc bấy giờ có Ngài Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn hôm nay có đủ chúng sanh ở các đường địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, sang, hèn, giàu, nghèo không biết bao nhiêu chủng loại . . . Phảm có chúng sanh nào nghe được Phật thuyết pháp thì cũng như con thơ gặp mẹ, như bệnh gặp thuốc, như lạnh có áo, như tối có đèn. Thế Tôn thuyết pháp lợi ích cho chúng sanh cũng như thế ấy”.

Lúc bấy giờ Phật thấy thời cơ đã đến; biết các vị Bồ tát khuyến mời Phật thuyết pháp rất ân cần; Phật liền phóng đạo hào quang trắng giữa hai chặn mày, soi khắp mười phương vô lượng thế giới, địa ngục không còn, thống khổ cũng hết.

Lúc bấy giờ hết thảy chúng sanh đang chịu tội, tìm ánh sáng quang minh của Phật mà tới; Nhiễu quanh Phật bảy vòng nhất tâm lạy Phật khuyến mời Phật thuyết pháp, rộng giáo hóa chúng sanh, khiến chúng sanh mong nhờ nghe phápđược giải thoát.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong  Đạo tràng cũng nên chí thành khuyến mời chư Phật thuyết pháp như vậy; nguyện cho chúng sanh đều được giải thoát.

Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đảnh lễ Thế tôn, năm vóc sát đất như núi Thái sơn đổ mả khuyến thỉnh mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật thuyết pháp. Nguyện Phật đem sức từ bi, cứu các khổ não cho chúng sanh được an vui.

Lại xin khuyến thỉnh quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Phạm Thiên Phật

Nam mô Bất thối chuyển Luân thành thủ Phật

Nam mô Đại hưng quang vương Phật

Nam mô Pháp chủng Tôn Phật

Nam mô Nhật Nguyệt đăng minh Phật

Nam mô Tu Di Phật

Nam mô Đại Tu Di Phật

Nam mô Siêu Xuất Tu Di Phật

Nam mô Dụ như Tu Di Phật

Nam mô Hương Tượng Phật

Nam mô Vi nhiễu Hương Huân Phật

Nam mô Tịnh quang Phật

Nam mô Pháp Tối Phật

Nam mô Hương Tự Tại Vương Phật

Nam mô Đại Tập Phật

Nam mô Hương Quang Minh Phật

Nam mô Đại Quang Minh Phật

Nam mô Vô Lượng Quang Minh Phật

Nam mô Sư Tử Du Hý Bố Tát

Nam mô Sư Tử Phấn tấn Bồ Tát

Nam mô Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ Tát

Nam mô Kim Cang Huệ Bồ Tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam mô Phật Đà

Nam mô Đạt mạ

Nam mô Tăng già.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo cứu hộ hết thảy chúng sanh; diệt trừ hết thảy khổ não, khiến các chúng sanh liền được giải thoát, bỏ ác theo lành, không làm ác nữa; Từ nay trở đi không còn đọa địa ngục, ngã quỉ, súc sanh nữa; thân khẩu ý đều thanh tịnh; không nghĩ đến việc ác của người; xa lìa các nghiệp chướng; được các nghiệp thanh tịnh; hết thảy tà ma không thể lay chuyển; thường tu bốn món vô lượng tâm ([1]); tinh tiến dõng mãnh, trồng các căn lành vô lượng vô biên; xả thân nầy thọ thân khác đều được thường sanh nơi phước địa; nhớ ba đường khổ, phát tâm bồ đề tu đạo Bồ tát không thôi không dứt. Lục độ ([2]) tứ đẳng ([3]) thường được hiện tiền. Tam minh ([4]) lục thông, thường được như ý tự tại. Ra vào cảnh giới của chư Phật, chơi dỡn tự do cùng các vị Bồ tát thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên sanh tâm sợ hãi, sanh tâm từ bi nhất tâm nhất ý, lắng lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn phóng đạo bạch hào tướng quang ở giữa hai chặn mày soi sáng khắp hết thảy chúng sanh trong sáu đường. Khi ấy Ngài Tín Tướng Bồ tát vì thương sót hết thảy chúng sanh, liền từ tòa ngồi đứng dậy đến trước Phật quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Nay có chúng sanh bị các ngục tốt cắt chặt bằm chém thân thể từ đầu đến chân. Chúng sanh ấy bị chặt và chết ngất thì có gió xảo phong thổi sống lại. Sống rồi lại bị chặt, chịu khổ báo như thế vô cùng vô tận không bao giờ ngừng là vì tội gì vậy”.

Phtậ bảo: “Những chúng sanh ấy ở các đời trước không tin Tam bảo, không biết cúng dường bất hiếu với cha mẹ, sanh tâm ác nghịch; làm nghề hàng thịt, cắt chặt chúng sanh, vì các nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.

– Lại có chúng sanh, thân thể sần sượng tê cứng cả người, mày râu rụng hết, toàn thân bầm đỏ, bạn với chim muông, vắng vẻ bóng người bà con xa bỏ, không ai muốn thấy. Ác báo như thế là bệnh phong hủi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: “Vì đời trước người ấy không tin Tam bảo, bất hiếu với cha mẹ, phá tháp hủy chùa, bóc lột người tu hành, chém bắn Thánh Hiền, tổn thương Sư trưởng, chưa từng biết quấy; vong ơn bội nghĩa, hành động như cẩu khuyển (chó) làm xấu người trên, không kể thân sơ, không biết hổ thẹn, vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.

– Lại có chúng sanh thân hình dài lớn, tai điếc, chân không có, quắn quại, bò lết mà đi, chỉ ăn đất cát mà sống; bị các sâu trùng nhỏ nhiệm cắn rức; ngày đêm chịu khổ vô cùng không gián đoạn; vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật dạy: “Vì đời trước làm người chỉ biết có mình, không tin lời hay, lời lành của kẻ khác. Bất hiếu với cha mẹ, trái ý phản nghịch, hoặc làm địa chủ hay làm quan to, trấn nhậm bốn phương, hoặc làm châu trưởng cai tri đốc suất dân chúng mà cậy oai ỷ thế, xâm đoạt của người cách vô lý, không đạo đức, làm cho dân chúng cùng khổ. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.”

– Lại có chúng sanh đui cả hai mắt, không thấy biết gì, hoặc bị cây đè, hoặc sa hầm hố mà chết, chết rồi sống lại; sống lại rồi chết, cứ như thế mãi. Vì nhơn duyên gì, mắc phải tội ấy?

Phật đáp: “Vì đời trước không tin tội phước, che ánh sáng của Phật, may bít mắt người, giam nhốt chúng sanh, lấy bao lấy đẫy bao đầu chúng sanh, không cho trông thấy. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất dáng sợ hãi.

Chúng con cũng có thể đã làm những tội như thế. Nhưng vì vô minh che lấp tâm tánh nên không tự nhớ biết đó mà thôi.

Những tội như vậy vô lượng vô biên đến đời sau sẽ chịu khổ báo.

Ngày nay chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất như núi Thái sụp đổ, cầu xin sám hối, hổ thẹn ăn năn, cải đổi tâm tánh. Những tội đã làm rồi nhờ sám hốitrừ diệt. Những tội chưa làm, từ nay thanh tịnh. Nguyện xin quy y hết thảy mười phương chư Phật.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Khai quang minh Phật

Nam mô Nguyệt đăng quang Phật

Nam mô Nhật nguyệt quang Phật

Nam mô Nhật nguyệt Quang minh Phật

Nam mô Đạo hảo Quang minh Phật

Nam mô Tập âm Phật

Nam mô Tối oai nghi Phật

Nam mô Quang minh tôn Phật

Nam mô Liên hoa quân Phật

Nam mô Liên hoa hưởng Phật

Nam mô Đa Bảo Phật

Nam mô Sư tử hống Phật

Nam mô Sư tử âm vương Phật

Nam mô Tinh tấn quân Phật

Nam mô Kim cang dõng dược Phật

Nam mô Độ nhất thế thuyền tuyệt chúng nghi Phật

Nam mô Bảo đại thị tùng Phật

Nam mô Vô Ưu Phật

Nam mô Địa Lực Trì dõng Phật

Nam mô Tối dõng dược Phật

Nam mô Sư tử tác Bồ tát

Nam mô Khí ấm cái Bồ tát

Nam mô Tịch Căn Bồ tát

Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát

Nam mô Vô biên thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Nam mô Phật đà

Nam mô Đạt mạ

Nam mô Tăng già.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo , nguyện xin Tam bảo dũ lòng đại từ đại bi, gia hộ cứu vớt, khiến các chúng sanh liền được giải thoát. Vì các chúng sanhdiệt trừ những nghiệp địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, khiến các chúng sanh rốt ráo không chịu các quả báo dữ nữa, khiến các chúng sanh bỏ khổ trong ba đường ác, đồng đến chỗ trí huệ, đều được yên ổn, hoàn toàn an vui.

Nguyện xin Tam bảo đem ánh sáng đại quang minh diệt trừ mê mờ rất si ám cho chúng sanh; phân biệt rộng rãi, giải thích rõ ràng pháp môn vi diệu, thậm thâm nhiệm mầu cho chúng sanh nghe, khiến chúng sanh đều được chứng quả vô thượng Bồ đề, thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại nên chí thành nhất tâm mà nghe, suy nghĩ cho kỹ:

Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn:

Lại có chúng sanh ngọng lịu ấm á, miệng không thể nói, dầu có nói cũng không rõ ràng. Vì nhơn duyên gì, mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước người ấy phỉ báng Tam bảo khinh hủy Thánh đạo, bàn luận việc xấu tốt của người, tìm việc hay dở của người, vu oan cho kẻ lương thiện, ghen ghét người hiền. Vì nhơn duyên ấy, nên mắc phải tội như vậy.

– Lại có chúng sanh bụng lớn như trống, cổ nhỏ như kim, không thể ăn nuốt được. Nếu có đồ ăn, đồ ăn biến thành máu mủ. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?

 Phật đáp: Vì đời trước, người ấy trộm cắp đồ ăn của chúng. Khi có đại hội, sắm các thức ăn ngon, người ấy riêng lấy mà ăn, hoặc lấy mè muối, gạo cơm ra chỗ khuất mà ăn. Lại thêm keo rít, tiếc của mình, tham của người, thường ôm lòng độc ác, cho người uống thuốc độc, nghẹt thở không thông. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.

– Lại có chúng sanh thường bị ngục tốt thiêu đốt, dội nước sắt nóng vào thân, đóng đinh sắt vào thân; đóng rồi tự nhiên hỏa bốc thiêu cháy thân thể thảy đều phỏng đỏ. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước làm thầy châm, lể, tổn thương thân thể của người. Châm chích không lành, gạt người lấy của, làm cho người đau khổ. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.

– Lại có chúng sanh thường ở trong cái vạc (cái chảo nấu) nước sôi ngưu đầu ngục tốt, tay cầm xoa sắt, móc bỏ vào vạc nấu chín rục, rồi thổi cho sống lại. Sống lại rồi nấu nữa. Vì nhơn duyên gì nên mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước người ấy làm nghề hàng thịt, giết chúng sanh, trụng nước sôi, nhổ sạch lông, giết hại rất nhiều không thể kể xiết. Vì nhơn duyên ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất đáng sợ hãi.

Chúng con không biết ở trong đường ác nào đã từng làm vô lượng tội nghiệp như thế. Đời sau quyết phải mắc quả báo ác nghiệt ấy. Ngay trong đời hiện tại chúng con cũng có thể mắc phải quả báo ác nghiệt ấy. Ấm cúng, ngọng lịu, miệng không thể nói, hoặc bụng lớn cổ nhỏ, không thể ăn nuốt, mạng sống vô thường. Ngày nay tuy an vui ngày mai thế nào không thể biết được.

Thình lình gặp phải quả báo đến, không thể thoát được.

Mọi người đều nên hiểu rõ ý ấy, nhất tâm chánh niệm, chớ tư tưởng gì nữa, chỉ một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh ở khắp trong bốn loài sáu đường, ngày nay đang chịu khổ, đã chịu khổ, hay sẽ chịu khổ mà quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Tự tại vương Phật

Nam mô Vô lượng âm Phật

Nam mô Định Quang minh Phật

Nam mô Bảo Quang minh Phật

Nam mô Bảo Cái chiếu không Phật

Nam mô Diệu Bảo Phật

Nam mô Đế Tràng Phật

Nam mô Phạm Tràng Phật

Nam mô A Di Đà Phật

Nam mô Thù Thắng Phật

Nam mô Tập Âm Phật

Nam mô Kim cang bộ Tinh tấn Phật

Nam mô Tự tại vương Thần thông Phật

Nam mô Bảo Hỏa Phật

Nam mô Tịnh nguyệt tràng xưng quang Phật

Nam mô Diệu Lạc Phật

Nam mô Vô lượng tràng phan Phật

Nam mô Vô lượng phan Phật

Nam mô Đại quang Phổ chiếu Phật

Nam mô Bảo Tràng Phật

Nam mô Huệ Thượng Bồ tát

Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát

Nam mô Vô biên thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Nam mô Phật đà

Nam mô Đạt mạ

Nam mô Tăng già.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện xin chư Phật, chư Bồ tát, đem sức đại từ đại bi, cứu hộ hết thảy chúng sanh đang chịu khổ, dùng sức thần thông diệt trừ ác nghiệp cho các chúng sanh, hoàn toàn không đọa trở lại trong ba đường khổ, đến được chỗ an vui thanh tịnh, sanh ra chỗ nào cũng được thanh tịnh, công đức đầy đủ, không thể cùng tận. Xả thân thọ thân hằng gặp chư Phật, đồng với các vị Đại Bồ tát thành đẳng chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại gia tâm lực, lắng tai nghe kỹ.

Tín Tướng Bồ tát lại bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, lại có chúng sanh ở trong hỏa thành tâm can bị thiêu đốt, bốn cửa thành tuy mở, nhưng chạy đến thì cửa liền tự đóng, chạy khắp đông tây cũng không ra được, bị lửa thiêu sạch. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước làm người thiêu đốt rừng núi, phá vỡ bờ đê, chiên rán các thứ trứng gà vịt làm cho chúng sanh bị thiêu, bị đốt mà chết nên phải mắc tội như vậy.

– Lại có chúng sanh thường ở núi Tuyết sơn bị gió lạnh thổi, da thịt nức nở, cầu chết không được, cầu sống không được, khổ sở vô cùng không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Người ấy đời trước làm giặc, đón đường bóc lột áo quần người khác để tự tư dưỡng; mùa đông giá lạnh, lột truồng hình người khác làm cho họ phải chết lạnh và lột da xẻ thịt trâu dê, làm cho chúng sanh đau khổ vô lượng. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.

– Lại có chúng sanh thường ở trên núi dao, rừng kiếm, rờ đụng vào đâu thì liền bị cắt đứt đó, thân thể tay chân đều bị chặt nát, đau đớn khổ sở, không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp; Vì người ấy đời trước làm nghề sát sanh, phanh thây xẻ thịt chúng sanh, cắt xẻo bóc lột, cốt nhục chia lìa, đầu mình tan rã, treo lên trên cao, cân lường mà bán, hoặc treo sống mà bán đau đớn vô cùng chúng sanh không thể chịu nổi. Vì nhơn duyênác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.

– Lại có chúng sanh tai mắt v.v... năm căn không đủ. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước nuôi chim bay chó chạy để đi săn bắn. Bắn chim bắn thú, hoặc bắn bể đầu, hoặc bẫy đứt chân, nhổ sống lông cánh, làm chúng sanh đau khổ vô cùng không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên ấy nên phải mắc tội như vậy.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy rất đáng sợ hãi. Cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh trong mười phương, hoặc đã chịu khổ, hoặc đang chịu khổ, hoặc sẽ chịu khổ mà quy y thế gian Đại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Tịnh Quang Phật

Nam mô Bảo Vương Phật

Nam mô Thọ căn Hoa vương Phật

Nam mô Duy Vệ trang nghiêm Phật

Nam mô Khai Hóa Bồ tát Phật

Nam mô Kiên vô khủng cụ Phật

Nam mô Thừa nhất độ Phật

Nam mô Đức nội phong nghiêm vương Phật

Nam mô Kim cang Kiên cường tiêu phục hoại tán Phật

Nam mô Bảo Hỏa Phật

Nam mô Bảo nguyệt quang minh Phật

Nam mô Hiền Tối Phật

Nam mô Bảo Liên Hoa Bộ Phật

Nam mô Hoại ma la võng độc bộ Phật

Nam mô Sư tử Hống lực Phật

Nam mô Bi Tinh tấn Phật

Nam mô Kim bảo quang minh Phật

Nam mô Vô lượng tôn phong Phật

Nam mô Vô lượng Tôn ly cấu vương Phật

Nam mô Đức Thủ Phật

Nam mô Dược vương Bồ tát

Nam mô Dược Thượng Bồ tát

Nam mô Vô biên thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin Tam bảo đem lòng đại từ, đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh trong mười phương khiến các chúng sanh hiện đang chịu khổ liền được giải thoát; chúng sanh sẽ chịu khổ hoàn toàn, đoạn trừ phiền não, rốt ráo không sa đọa trỉ lại trong ba đường ác nữa.

Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật trừ sạch ba nghiệp chướng diệt hết năm sợ hãi; hoàn toàn đầy đủ công đức trang nghiêm; nhiếp hóa hết thảy chúng sanh hướng về vô thượng đạo, thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại lắng lòng mà nghe:

Tín Tướng Bồ tát bạch Phật. Bạch đức Thế Tôn: Lại có chúng sanh què trệt, lưng cong, tay chân co quắp, không thể cầm nắm , không thể đi đứng. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước làm người độc ác, để binh khí giữa đường, đặt súng đặt gươm, đào hầm đào hố, hãm hại chúng sanh. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.

– Lại có chúng sanh bị các ngục tốt trói buộc thân thể, gông cùm khổ ách, không thể thoát được. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước người ấy chài lưới chúng sanh, buộc nhốt lục súc, hoặc làm chủ tể, quyền hành địa phương, cai trị dân chúng, tham lam vơ vét, giam oan ngưởi vô tội, lương thiện, oán hận không biết kêu ai.

– Lại có chúng sanh hoặc điên, hoặc si, hoặc cuồng, hoặc sợ, không phân biệt được tốt xấu. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước làm người uống rượu say sưa, loạn trí loạn tâm, phạm ba mươi sáu lỗi nên đọa làm người ngu si, cũng như người say không phân biệt được tốt xấu, thượng hạ tôn ty. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.

– Lại có chúng sanh thân lùn, hình nhỏ, âm tạng rất lớn, thả xuống thì thân đau, phải vắc ra sau lưng mà đi, đi đứng nằm ngồi đều bị trở ngại. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước buôn bán vàng ngọc, khen vật báu của mình, chê vật báu của người, thay đổi thăng đấu, vặn cân bẻ móc, (gian lận thước tấc). Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời Phật dạy như vậy rất đáng sợ hãi. Cùng nhau nhất tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh đã chịu khổ, hết thảy chúng sanh sẽ phải chịu khổ trong sáu đường; và nguyện vì cha mẹ, sư trưởng, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh khắp trong mười phươngquy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Vô số Tinh tấn hương phong Phật

Nam mô Vô Ngôn Thắng Phật

Nam mô Vô Ngu Phong Phật

Nam mô Nguyệt anh phong Phật

Nam mô Vô Dị quang phong Phật

Nam mô Nghịch không quang minh Phật

Nam mô Tối thanh tịnh vô lượng tràng Phật

Nam mô Hiếu đế trú duy vương Phật

Nam mô Thành tựu nhất thế chư sát phong Phật

Nam mô Tịnh Huệ Đức Phong Phật

Nam mô Tịnh Luân Phan Phật

Nam mô Lưu Ly quang tối phong Phật

Nam mô Bảo Đức Bộ Phật

Nam mô Tối thanh tịnh đức bảo trú Phật

Nam mô Độ bảo quang minh thắng Phật

Nam mô Vô lượng Tàm quý kim tối phong Phật

Nam mô Văn Thù Sư lợi Bồ tát

Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Đệ tử chúng con tên . . .  ngày nay mong nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, nguyện vì hết thảy chúng sanh mà đành lễ quy y cầu xin sám hối.

Những chúng sanh đã chịu khổ rồi, xin nhờ sức đại từ bi của chư Phật, chư Bồ tát, liền được giải thoát.

Những chúng sanh chưa chịu khổ, từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, rốt ráo không đọa trở lại trong các đường ác, xa lìa tám nạn khổ; bẩm thọ tám phước sanh; được các căn lành, thành tựu bình đẳng, đầy đủ trí huệ, thành tựu biện tài, thanh tịnh tự tại, cùng với chư Phật thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên biết dụng tâm, lắng lòng mà nghe, Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, lại có chúng sanh, hình trạng rất xấu, thân đen như mực, hai tai lại xanh, hai vai nổi lên, mặt phẳng, mũi dẹp, mắt đỏ vàng ngầu, răng nướu sua sún, hơi miệng tanh hôi, vế ngắn và ủng thủng; bụng lớn, lưng nhỏ, tay chân co quắp; xương sườn, xương sống nổi lên, tốn vải; ăn nhiều; ghẻ dữ tanh hôi, máu mủ nhơ nhớp; bệnh thủy thủng, càn tiêu, phung hủi ung thư, bao nhiêu điều ác độc hung dữ đều dồn vào thân. Dầu muốn thân cận người không để ý. Nếu người khác làm tội, vô cớ mình cũng liên can mang họa. Hằng không được thấy Phật, nghe pháp, không biết Bồ tát không biết Thánh Hiền. Ra vào nơi đau khổ, không bao giờ cùng. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật dạy: Vì đời trước làm con bất hiếu với cha mẹ; làm tôi không trung chánh với vua, làm người trên không thương kẻ dưới, làm người dưới không biết kính kẻ trên, không thành thật, không thủ tín với bạn bè, không nhơn nghĩa với làng xóm; không chức tước với triều đình; không đạo đức trong sự xử đoán, không có độ lượnglòng dạ đảo điên, sát hại quân thần; khinh khi tôn trưởng, bán nước buôn dân, phá thành phá lũy, cướp giựt trộm cắp, ác nghiệp vô lượng.

Lại khen mình chê người, xâm lấn già nua, lấn hiếp cô độc; báng bổ người hiền, khinh mạn sư trưởng; khi dối kẻ hà tiện.

Tóm lại là phạm hết thảy tội. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải ác báo, tội nghiệp như vậy.

Lúc bấy giờ những người bị tội nghe Phật dạy như vậy, khóc lóc động địa, nước mắt trào như mưa, bèn bạch Phật rằng: Nguyện xin Thế Tôn sống mãi ở đời, thuyết pháp giáo hóa cho chúng con mong được giải thoát.

Phật đáp: Nếu ta ở mãi ở đời, những người bạc phước; không trồng căn lành. Họ bảo ta còn sống mà không lo nghĩ đến vô thường, tự do tạo ra vô lượng tội ác, sau ăn năn không kịp.

Thiện nam tử ôi! Ví như con thơ, mẹ thường ở bên mình thì con không nghĩ đến sự gặp mẹ là khó. Lúc nào mẹ đi vắng, con mới liền sanh tâm nhớ tưởng, khao khát luyến mẹ. Lúc ấy mẹ trở lại con mới vui mừng.

Thiện nam tử ôi! Ta nay cũng như vậy Ta biết chúng sanh không tìm cầu sự thật, thường trú chơn tâm, cho nên ta nhập Niết bàn.

Lúc bấy giờ Phật đối trước những chúng sanh đang chịu tội đó mà nói bài kệ rằng:

Nước chảy không thường đầy,

Lửa mạnh không thường đốt,

Mặt trời mọc rồi lặn,

Mặt trăng tròn rồi khuyết,

Sự tôn trọng giàu sang,

Càng vô thường hơn nữa,

Nghĩ lại phải siêng năng,

Đảnh lễ ngôi Tam bảo.

Lúc bấy giờ Phật nói lời kệ ấy rồi, các người bị tội kia thảy đều buồn rầubạch Phật rằng: Hết thảy chúng sanh làm những việc lành gì mà xa lìa được những tội khổ ấy?

Phật dạy: Nầy, thiện nam tử! Phải siêng năng hiếu dưỡng cha mẹ; phụng sự sư trưởng, quy y Tam bảo, siêng tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, từ bi, hỷ xả, xem kẻ oán người thân như nhau, không có thân sơ, không khinh người già nua, cô quả; không khinh kẻ nghèo hèn; ủng hộ người như giúp đỡ mình, không có tâm ác đối với người.

Nếu các người hay tu hành được như vậy thời cũng đã là báo được ơn chư Phật; hằng xa lìa ba đường ác, không còn đau khổ nữa. Phật dạy kinh nầy rồi các vị đại Bồ tát liền được quả vô thượng bồ đề. Các hàng Thanh văn Duyên giác liền chứng được lục thông, tam minhtám pháp giải thoát. Còn các đại chúng khác đều được pháp nhãn tịnh. ([5])

Nếu có chúng sanh nào, nghe được kinh nầy thì không đọa vào ba đường ác, và không mắc phải tám nạn, địa ngục trống rỗng, thống khổ không còn.

Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn, kinh nầy gọi là kinh gì? Bồ tát ma ha tát phải phụng trì bằng cách nào?”

Phật bảo Tín Tướng Bồ tát: “Thiện nam tử, kinh nầy gọi là Báo ứng Giáo hóa Địa ngục kinh”. Các ngươi nên phụng trì, và lưu truyền cùng khắp, công đức vô lượng”.

Bấy giờ Đại chúng nghe Phật dạy lời ấy rồi hết lòng vui mừng, đảnh lễ vâng lời làm theo.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời Phật dạy như vậy, rất đáng sợ hãi, sanh tâm từ bi, nương nhờ thần lực của Phật, tu đạo Bồ tát nhớ địa ngục khổ, phát tâm Bồ đề, vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ, ở đường địa ngục, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường ngã quỉ, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường súc sanh; rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh cùng khắp mười phương hiện đang chịu khổ ở trong sáu đường; nhất tâm nhất ý, vì những chúng sanh ấy mà sám hối, khiến chúng sanh được giải thoát.

Nếu đại chúng không siêng làm phương tiện, chuyển họa thành phước, thì ở trong mỗi mỗi địa ngục, đại chúng đều có tội phần.

Cùng nhau chí tâm nghĩ đến cha mẹ, sư trưởng, bà con thân thích, sẽ chịu khổ báo về sau và cũng nghĩ đến tự thân đại chúng hiện tạivị lai cũng phải chịu khổ báo như vậy. Cho nên đại chúng phải cùng nhau nhất tâm tha thiết, năm vóc sát đất, chí thành ân cần vận dụng tư tưởng, nguyện xin một niệm cảm thấu mười phương Phật; một lạy đoạn trừ vô lượng tội khổ. Những chúng sanh đã chịu khổ trong sáu đường, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát. Nếu trong sáu đường chúng sanh nào chịu khổ, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực làm cho các chúng sanh ấy vĩnh viễn đoạn trừ sáu đường đau khổ. Từ nay trở đi rốt ráo không đọa trở lại trong các đường ác; trừ ba nghiệp chướng, tùy ý vãng sanh diệt trừ năm điều sợ hãi, tự tại giải thoát siêng tu đạo nghiệp, không thôi không nghỉ. Diệu hạnh trang nghiêm quá Pháp vân địa ([6]), vào Kim cang tâm ([7]), thành đẳng chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại nhất tâm lưu ý, lắng lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ:

Kinh Tạp Tạng chép: Bấy giờ có một con quỉ bạch với Ngài Mục Liên rằng:

“Thân tôi hai vai có mắt, ngực có mũi có miệng mà không có đầu. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?”

Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm học trò nhà hàng thịt, khi giết trâu bò thì ngươi vui mừng, lấy dây trói buộc mà lôi kéo. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là tội báo mới nụ hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.

– Lại có một con quỉ khác bạch Ngài Mục Liên rằng: “Thân hình tôi như một khối thịt, không có tay chân, tai, mắt, mũi, lưỡi v.v... Thân thường bị trùng rúc chim mổ, cắn rức mà ăn, đau đớn vô cùng, không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?”

 Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi cho người uống thuốc độc đọa thai, phá sản khiến chúng sanh mạng sống không hoàn toàn. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy?”

 – Lại có một con quỉ bạch Ngài Mục Liên rằng: “Bụng tôi thật lớn, yết hầu như kim. Cùng năm mãn kiếp không hề ăn uống. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?”

 Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm chủ hàng xóm, tự ỷ mình hào quý, say sưa tung hoành, khinh khi kẻ khác, cướp giựt thức ăn uống của người làm cho đói khát, khốn khổ hết thảy nhơn dân. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là quả báo mới đơm hoa, nó sẽ kết quả ở địa ngục”.

– Lại có một con quỉ bạch Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, có hai vành sắt ở dưới hai nách, toàn thân cháy rụi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”

Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi chia bánh cho chúng, ngươi trộm lấy hai cái, kẹp dưới hai nách. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là tội mới đơm hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.

– Lại có một con quỉ, bạch Ngài Mục Liên rằng: “Tôi thường lấy đồ tự bao bọc đầu lại, sợ người đến giết, sanh tâm sợ hãi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”

Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi dâm phạm ngoại sắc, thường sợ người thấy, hoặc sợ chồng con người bắt được, trói trăn, đánh chết, thường ôm lòng sợ hãi, cho nên mắc phải tội nầy. Đó là tội mới đơm hoa, nó sẽ kết quả ở địa ngục”.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy, đâu được không sợ hãi.

Từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay chúng con cũng đã làm vô lượng tội ác như thế. Những tội ấy đều do vì không có tâm từ bi, ỷ mạnh hiếp yếu, tổn hại chúng sanh, cho đến tội trộm cắp của người, mê đọa, sa đọa, nịnh hót bài báng người hiền lành, gây biết bao tội lỗi.

Những tội báo như vậy ở trong địa ngục, quyết phải chịu thống khổ trong ba đường dữ.

Ngày nay chí tâm một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, thay thế cho hết thảy chúng sanh khắp mười phương, đã chịu khổ báo trong sáu đường, đang chịu khổ trong sáu đườngcầu xin sám hối.

Cũng nguyện xin thay thế vì cha mẹ, sư trường và hết thảy bà con quyến thuộccầu xin sám hối và cũng tự vị bản thâncầu xin sám hối. Những tội đã làm, nguyện xin trừ diệt hết. Những tội chưa làm, không dám làm nữa.

Nguyện xin quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Liên Hoa Tôn Phong Phật

Nam mô Tịnh Bảo Hưng Phong Phật

Nam mô Điện đăng Phan vương Phật

Nam mô Pháp không đăng Phật

Nam mô Nhất thế chúng đức thành Phật

Nam mô Hiền phan Tràng vương Phật

Nam mô Nhất Thế Bảo Trí Sắc trì Phật

Nam mô Đoạn nghi Bạt dục trừ minh Phật

Nam mô Ý vô khủng cụ oai mao bất thọ Phật

Nam mô Sư tử Phật

Nam mô Danh xưng Viễn vặn Phật

Nam mô Pháp danh Hiệu Phật

Nam mô Phụng Pháp Phật

Nam mô Pháp Tràng Phật

Nam mô Tu Di Đăng quang minh Phật

Nam mô Bảo Tạng trang nghiêm Phật

Nam mô Chiên Đàn ma ni quang Phật

Nam mô Kim Hải Tự Tại vương Phật

Nam mô Đại bi quang minh vương Phật

Nam mô Ưu bát la liên hoa thắng Phật

Nam mô Liên Hoa Tu trang nghiêm vương Phật

Nam mô Kim cang kiên cường Tự tại vương Phật

Nam mô Thù thắng Nguyệt vương Phật

Nam mô Nhật nguyệt quang vương Phật

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát

Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo, nguyện xin Tam bảo dủ lòng đại từ đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh, hiện đang chịu khổ, và sẽ chịu khổ trong sáu đường, khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát, đem sức thần thông diệt trừ ba đường ác và nghiệp địa ngục, khiến các chúng sanh ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật hoàn toàn không đọa trở lại trong đường ác, xả thân khổ báo, được thân kim cang, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền; tứ vô ngại biện, sáu sức thần thông như ý tự tại, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, cho đến khi mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh.

 

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

Quyển Thứ Ba

–  HẾT –

[1]) 4 Vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả.

[2]) Lục độ: tức sáu phép ba la mật.

[3]) tứ vô lượng tâm.

[4]) Tam minh: Thiên nhãn minh, túc mạng minhlậu tận minh.

[5] Pháp nhãn tịnh: thấy được chơn đế lý cách rõ ràng.

[6] Pháp vân địa: địa thứ 10 xem ở quyển 2.

[7] Kim cang tâm: Đại tâm của Bồ tát kiên cố như ngọc kim cang không có gì phá hoại được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19878)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29000)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20713)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19465)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30550)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36474)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33270)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35608)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21008)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21947)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25820)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31295)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18583)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25166)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23801)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28964)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20899)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31466)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25577)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29745)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22544)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25744)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23308)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25765)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23770)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40629)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23365)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22490)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22108)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23523)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23301)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24347)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41136)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19021)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20513)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27748)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38150)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34096)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36819)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24033)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29230)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60194)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27638)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68778)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24554)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24519)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22742)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26390)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26574)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20844)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20088)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27588)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46489)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53605)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23634)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21126)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25620)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29298)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant