Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Trăm Bài Tụng được các Hiền Thành kết tập từ Kinh

21 Tháng Ba 201621:04(Xem: 17969)
Một Trăm Bài Tụng được các Hiền Thành kết tập từ Kinh
MỘT TRĂM BÀI TỤNG
ĐƯỢC CÁC HIỀN THÁNH KẾT TẬP TỪ KINH

 Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh,
quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686.

Tây Thiên dịch kinh Triêu Tán Đại Phu Thí Hồng Lô,
Thiếu Khanh Minh Giáo Đại Sư Thần Thiên Tức Tai phụng chiếu dịch Phạn-Hán.
Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác,
Hannover Đức quốc dịch Hán- Việt ngày  04.09.2007 tại Hannover.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất ngày 21 tháng 3 năm 2016.


      Kính lễ tất cả xuất thế gian

      Biển công đức tối tôn ba cõi,

      Lửa trí hay thiêu phiền não nhơ

      Chính Giác, con nay quy mạng lễ.

      Kính lễ hay cứu hiểm sinh tử

      Cạn khắp biển ưu não tham si,

      Phá núi trần lao tội nghiệp kia

      Con nay quy mạng báu Diệu Pháp.

      Kính lễ tất cả Phật xưng tán

      Bát thánh đạo thật hành trang nghiêm

      Thiền định vô vi dần tròn sáng

      Con nay quy mạng báu Thánh Chúng.   

      Tạng báu trong cung, các lầu gác

      Vàng, ngọc, ma-ni đủ loại quang

      Trân châu, lưu ly khắp trang nghiêm

      Trăm nghìn Trời, Người thường chiêm ngưỡng.   

      Nếu được ở an trên cõi Trời

      Là quả báo trang nghiêm chùa Phật;

      Tín tâm quy kính nơi Tam Bảo

      Cấp thí tài, vải trong tinh xá,

      Thọ khoái lạc trời người kia rồi

      Sẽ được quả Niết-bàn tịch diệt.

      Tinh xá lâu năm nhiều hư hoại

      Sửa lại, trang nghiêm cúng Phật, Tăng

      Thường được khoái lạc cõi trời, người

      Cũng được quả Niết-bàn tịch diệt.

      Nếu nơi tinh xá cúng vườn rừng,

      Tọa cụ, y phục và thuốc thang,

      Lại gặp lúc ác nạn đói khát

      Bố thí chúng sinh đồ uống ăn

      Như thế sẽ được phúc vô biên

      Và được Bảy Thánh Tài bậc trí,

      Tiêu trừ tất cả khổ ác đạo,

      Thọ đại phúc mãi vô cùng tận.

      Chỗ chư Phật Như Lai đi, ở

      Nếu người đến rồi sinh cung kính

      Phụng sự, cúng dường, kiêm nghe pháp,

      Tin sâu, tu học, y giới hành

      Sẽ được quả rộng lớn vô biên,

      Như biển lớn vô cùng sâu rộng

      Lấy vật đo lường không thể được

      Phúc đức rộng lớn cũng như vậy.

      Nếu ai kiến tạo điện thờ Phật

      Nóng, lạnh, gió, mưa chẳng vào lọt,

    Đắc được pháp tịch tĩnh tối thắng,

    Viên mãn tất cả tùy ý nguyện.

    Nếu ai tạc hoặc vẽ tượng Phật

    Được giải thoát ưu não, tật bệnh,

    Sau được sinh Thiên, thân thắng diệu,

    Trí lớn, cát tường và tôn quý.

    Nếu ai sửa chữa lại tượng Phật

    Sẽ được thân chắc chắn, không bệnh,

    Sống lâu, mạnh khoẻ, các tướng tốt,

    Sau được vui Niết-bàn tịch tịnh,

    Ưu não, tranh tụng đều diệt trừ,

    Dũng mãnh, biện tài người ca ngợi,

    Điều phục các căn mà sách tấn,

    Tất cả trang nghiêm, được chúng kính.

    Nếu ai tu bổ các tượng Phật

    Xa lìa lầm lỗi được sinh Thiên,

    Giầu có, đoan nghiêm được kính phục,

    Tất cả phúc đức đều đầy đủ.

    Tháp miếu hư hoại nếu sửa sang

    Người ấy không bệnh, thân viên mãn,

    Tất cả quả thế gian đáng yêu

    Tùy tâm đủ loại đều đầy đủ.                      

    Nếu tạo tượng Phật và tháp Phật

    Hình lượng nhỏ đến như hạt gạo,

    Không chỉ trên Trời hay cõi Người

    Quyết định làm vua thọ khoái lạc,

    Sinh cõi Sắc, Vô sắc cũng vậy,

    Phú quý vô biên chẳng thể lường,

    Sẽ lìa khổ sinh, lão, bệnh, tử

    Rốt ráo tròn quả Phật Bồ-Đề.

    Nếu trong tháp miếu để xá-lợi

    Và vẽ tượng Phậtcúng dường

    Được ánh sáng trí suốt đại địa

    Tịnh diệu Thiện Thệ phú quý Phật,

    An trụ vô biên chúng sinh giới

    Cùng vào tính vô tướng bình đẳng.

    Nếu trên ngọn núi chỗ an tịnh

    An trí tháp Phật và Luân tướng

    Hình lượng chỉ chừng đốt ngón tay

    Sẽ sinh trong tất cả Trời, Người

    Đoan nghiêm, phúc lớn, mạnh khoẻ, an,

    Sau làm Thiên tử Tam Thập Tam.

    Nếu ai dùng tay mở tháp Phật

    Sẽ được giàu sang và đầy đủ,

    Thân thể sáng sạch tâm nhu nhuyến,

    Biết nhiều, tính tịnh, không sân mạn.

    Nếu người trí hành bố thí độ

    Cúng Phật hương xoa và bạch đàn,

    Dâng đủ loại hương như Câu-ma…

    Sẽ được quả đáng yêu rộng lớn.

   Nếu ai tin Phật sinh hoan hỉ

   Đem diệu hương, hoa và âm nhạc

   Đủ loại cúng dường Phật Như Lai

   Sinh cõi trời, cảm ao vàng báu,

   Dùng hương diệu nhị hoa trong ao

   Thấm khắp toàn thân mà tắm gội,

   Nước Mạn-na Cát-nhĩ thanh tịnh

   Vào rồi trần cấu tự nhiên trừ,

   Sóng dâng dòng mạnh phun hương lạnh,

   Bờ báu sen hồng nở khắp cùng

   Chư thiên nhìn thấy đều vui thích,

   Cấp thí Phật, Tăng được báo này.

   Công đức như thế không thể lượng

   Cho nên cuối các kinh tụng tán.

 

   Y đẹp, đồ mặc tốt

   Cúng Phật và cúng Tăng,

   Sau khi sinh cõi Trời    

   Thiên y hương tối thượng,

   Đủ loại sắc xanh, vàng

   Trăm nghìn báu ma-ni

   Dùng để làm trang nghiêm

   Giàu sang thật vô lượng,

   Khoái lạc cũng vô biên

   Được quả thắng diệu này.

   Ai sinh trong thế gian

   Mà được làm quốc vương

   Đầy đủ các sắc tướng

   Y lụa thêu thượng diệu,

   Đủ loại hương thù thắng

   Tùy thân thường thọ dụng,

   Đều vì cúng y Phật

   Thành tựu báo như thế.

   Nếu ai sinh cõi trời

   Đủ loại báu trang nghiêm

   Thân mang châu, anh lạc,

   Đầu đội mũ ngọc báu,

   Khuyên tai và vòng tay,

   Khoái lạc giàu như thế,

   Cúng Phật đồ trang nghiêm

   Được quả trời thắng diệu.

   Nếu làm quốc vương lớn,

   Tướng thân rộng nghiêm sức

   Anh lạc châu ma-ni,

   Âm thanh ngọc vang cao,

   Cũng là ruộng Tam Bảo

   Bố thí đồ trang nghiêm.

   Người trí tâm thanh tịnh

   Cúng Phật các vòng hoa…

   Trên trời, trong cõi người

    Thường được các khoái lạc,

    Sau sinh trong hậu báo.

    Thành tựu hoa Thất Giác,

    Lại sinh thiên sơn địa

    Mà làm Đế-Thích chủ

    Cùng với các quyến thuộc

    Du hí nơi vườn rừng,

    Đủ loại hoa cúng dường

    Mà được quả như thế.

    Báu lưu ly, trân châu

    Các vàng, bạc xanh, vàng

    Trang nghiêm nơi tán lọng

    Tròn trịa như trăng rằm,

    Hoặc vua hoặc đại thần

    Dùng che trên đỉnh đầu,

    Như Phật nói, nhân này

    Thí lọng được báo ấy

    Giải thoát não tham ái,

    Không bệnh, luôn an lạc,

    Lại làm vua thế gian

    Cũng là quả thí lọng.

    Nếu nơi tháp miếu Phật

    Bố thí những tràng phan

    Sẽ làm Thiên Luân Vương

    Thế gian không ai hơn,

    Lìa xa tất cả tội,

    Ở trong các chúng sinh

    Mà làm bậc thượng thủ,

    Thường được người cúng dường.

    Nếu ai nơi tháp miếu

    Cúng thí các chuông linh,

    Không sinh nơi tội báo ,

    Thường được âm thanh Phạm.

    Nếu ai làm âm nhạc

    Đàn cầm, trống với sáo

    Cúng dường Phật, Thánh Hiền

    Khiến nghe tâm vui thích

    Sẽ được căn thiên nhĩ,

    Trang nghiêm thường thanh tịnh,

    Lại được tuệ kim cang

    Phá tan núi phiền não.

    Nếu phát tâm tin vui,

    Dùng diệu sắc, hương, vị

    Đủ loại uống ăn ngon

    Cúng dường lên chư Phật,

    Sẽ sinh trong cõi Trời

    Quyến thuộc cùng tòa báu,

    Dùng bảo khí ma-ni,

    Ăn cỗ trời vi diệu,

    Kiếp đao binh, đói khát

     Sẽ vĩnh không sinh vào

     Nếu ai dùng uống ăn

     Cúng dường các Thánh hiền,

     Sẽ sinh trong Trời, Người

     Thức ngon thường sung túc

     Đủ loại mà tối thượng.

     Người trí luôn ái kính

     Dùng đồ ăn mỹ diệu

     Cúng thí người xuất gia,

     Thường được thân giàu, vui,

     Biện tài và sống lâu

     Khoẻ mạnh, tướng đầy đủ

     Quả thí thực như vậy.

     Nếu dùng tâm từ mẫn

     Cúng thí nước ngon ngọt

     Cùng tô, sữa, lạc, tương

     Khiến người đang khát kia

     Uống rồi được an lạc,

     Cũng được quả như trước.

     Nếu lấy A-lê-lặc

     Các cỏ thuốc, lâm-đằng

     Cúng thí cho Thánh hiền,

     Sẽ sinh trong Trời, Người

     Không bệnh mà sống lâu,

     Thường được thân an lạc;

     Lại, người thí nước uống

     Sau được sinh Thiên cung

     Kiếp thọ, hoa cỏ tốt,

     Mong cầu tùy ý được,

     Đồ báu đựng rượu ngọt

     Cùng quyến thuộc chung uống,

     Lại nữa nơi kiếp thọ

     Sinh ra đồ trang nghiêm

     Hát ca các thiên nhạc

     Khiến tâm thiên chúng vui,

     Cam lộ lại theo thân,

     Thí uống được báo này.

     Nếu ai cúng trai thực

     Sẽ được sinh Trời, Người

     Xa lìa khỏi nghèo hèn

     Sống lâu, đủ tiền, báu.

     Nếu dùng các voi, ngựa

     Xe cưỡi và xe kéo

     Cúng thí Phật Như Lai

     Sẽ được thần thông lớn.

     Nếu thí giầy dép thảy

     Thường sinh dòng tộc cao,

     Thường có xe voi, ngựa,

     Vĩnh lìa khổ nghèo hèn.

     Nếu sư trưởng…có bệnh

     Nếu ai vui hầu hạ,

     Sẽ ở tất cả chỗ

     Mong cầu đều thành tựu.

     Nếu cúng thí tọa cụ,

     Sẽ sinh trên cõi trời,

     Chẳng thọ khổ lao nhọc,

     Thường ngồi chỗ thượng diệu.

     Sắp đặt đồ nằm cúng

     Sinh Thiên thường khoái lạc,

     Thân tướng rộng, ngay thẳng,

     Không sợ, người ngợi ca.

     Trồng trọt vườn rừng tạp

     Trang hoàng các phòng nhà

     Cho người, khiến ở, đi

     Thân tâm sinh vui thích,

     Sẽ cảm vườn Hoan Hỉ,

     Chỗ du hành Trời, Người

     Cùng với các Thiên nữ

     Vui chơi, thọ khoái lạc.

     Nếu trong lúc nóng bức

     Mà làm bóng mát thí

     Sẽ cảm cây Ưu-Đàm,

     Ni- câu và Bồ-đề,

     Sau lại được sinh Thiên

     Thường thọ vui năm dục.

     Giếng, suối và ao, hồ

     Khiến khắp đều đầy đủ

     Hậu báo được sinh Thiên,

     Hoặc sinh nơi Phạm Thế,

     Hưởng đủ loại khoái lạc,

     Lại chứng quả tịch tịnh.

     Nếu dùng bát-đa-la

     Cúng dường lên Tam Bảo

     Sẽ sinh tất cả chỗ

     Giàu sang mà khoái lạc,

     Ở trong thế gian kia

     Đức tôn cao tối thượng,

     Lại cảm các chúng sinh

     Luôn luôn thường cúng dường.

     Người trí nếu thí dao

     Sẽ được sinh cõi Trời,

     Vĩnh chẳng gặp đao binh.

     Nếu ai cúng thí kim

     Trí tuệ thường sắc bén

     Đoạn được các phiền não,

     Chứng đạo tịch tĩnh kia.

     Phật nói, nếu có ai

     Đắp và vẽ tượng Phật,

     Sinh ở trong cõi Trời,

     Thân thể sắc vàng ròng,

    Sáng trong như mặt trời,

    Mà các chúng Trời, Người

    Chư thiên chúng nam, nữ

    Luôn luôn thường quy mạng.

    Nếu người trí tuệ kia

    Khéo nói được pháp thí

    Sinh trên Trời, cõi Người,

    Đầy đủ lực trí, đức,

    Thường hưởng các khoái lạc,

    Vĩnh lìa khổ ưu bi,

    Nơi thân sau rốt kia

    Chứng được đạo tịch tĩnh.

    Nếu các hữu tình kia

    Biên chép báu diệu pháp

    Sẽ được trí Túc Mạng,

    Giầu sang, luôn an lạc,

    Mà diệt tất cả tội,

    Trải qua câu-chi kiếp

    Không rơi vào địa ngục

    Và ngạ quỷ, súc sinh.

    Nếu người có trí kia

    Quét rửa lập đàn tràng,

    Nhiễu vòng, rải hoa hương

    Hằng thời mà cúng dường,

    Sau sinh trong cõi Người

    Và sinh trên cõi Trời,

    Thường được hưởng giàu sang,

    Sau chứng được tịch diệt.

    Nếu dùng đèn sáng lâu

    Cúng dường Phật, Hiền Thánh,

    Sinh trong cõi Trời, Người

    Ba mắt thường thanh tịnh:

    Pháp nhãnThiên nhãn,

    Cùng với nhục nhãn vậy;

    Lại, người thí đèn kia

    Thường được sinh cõi Trời,

    Miệng cũng không câm, ngọng

    Tai, mắt chẳng điếc, mù;

    Lại, người thí đèn kia

    Không chỉ ba mắt tịnh

    Có thể pháp chính giác

    Tất cả đều thông đạt.

    Người trí nếu thí tài

    Cúng dường chúng có đức,

    Sa-môn, Bà-la-môn,

    Thí ít được nhiều quả,

    Rộng được tài thuận đạo,

    Dài lâu mà thọ dụng;

    Lại, người hành bố thí

    Thí súc sinh đồ ăn,

    Phúc đức thu hoạch được

    Thành gấp cả trăm lần.

    Nếu dùng tài, thức ăn

    Bố thí cho người tội,

    Công đức lần gia tăng

    Được phúc nghìn lần hơn;

    Nếu thí người trì giới

    Phúc trăm nghìn lần hơn;

    Cúng dường bậc vô tâm

    Được lợi trăm câu-chi.

    Nếu ai thí Hữu học

    Và bậc Vô Học kia,

    Phúc đức thu hoạch được

    So trước lại hơn nhiều.

    Nếu thí Phật Như Lai,

    Sẽ sinh trên cõi Trời,

    Phúc lớn mãi không hết,

    Luôn hưởng các khoái lạc,

    Cho đến hết luân hồi

    Mà chứng pháp tịch tĩnh.

    Con tập đây tất cả

    Kinh Già-đà Phật nói,

    Lược nói về phúc báo

    Khiến khắp sinh tin nhận.

    Giả sử nghìn mặt trời

    Cát tường chiếu đại địa,

    Trong đêm ánh trăng tròn

    Làm nở hoa sen xanh,

    Thủy thiên Tì-Sa-Môn,

    Đế-Thích, Na-La-Diên,

    Các Chư thiên thượng thủ

    Đều vì hành thí được.

    Mặt trời đi trong không

    Chiếu khắp cả trên dưới

    Làm sống các vật, mạng.

    Đến lúc cũng vô thường.

    Đế-Thích, Tứ Thiên Vương

    Cùng với các Thiên chúng

    Khi phúc thọ hết rồi

    Phải vào miệng chết oán,

    Lửa ưu, bi, khổ não

    Bị lửa thiêu, chẳng trụ.

    Cho nên khuyên các người

    Quán sát thân vô thường,

    Lìa xa tâm khát dục,   

    Chớ ham vui Trời, Người,

    Chốc lát chẳng dài lâu

    Đều quy về tán hoại.

    Con phát tâm tịnh tín

    Lìa bỏ vui hư huyễn,

    Thường đến ở trước Phật

    Chắp tay mà gần gũi

    Vì tự đại Bồ-đề

    Mà làm giải thoát chủ.

 


 HẾT

                            

Sửa bản in ngày 21/3/2016: Thanh Phi

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27171)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21765)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20429)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24740)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23981)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27760)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26506)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21301)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23216)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38119)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19951)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19038)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22788)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22906)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29563)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20634)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18850)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19648)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20148)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19950)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22919)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34163)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39239)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26057)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20095)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18845)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24052)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29110)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30944)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20674)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26250)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19816)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30026)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20215)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15143)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15827)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23868)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19844)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant