Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1 - Sự Hình Thành &Cấu Trúc của A-hàm & Nikaya

21 Tháng Năm 201615:10(Xem: 5594)
Chương 1 - Sự Hình Thành &Cấu Trúc của A-hàm & Nikaya

A HÀM
MƯA PHÁP CHUYỂN HÓA PHIỀN NÃO

Thích Nữ Giới Hương
(Trọn Bộ Hai Tập)
Nhà xuất bản Hồng Đức 2016



                                                              
  Chương 1 - Sự Hình Thành & Cấu Trúc của A-hàm & Nikaya                                                                   


Trong lịch sử, Phật giáo được chia thành hai trường phái chính là Phật giáo thời kỳ đầu (Tiểu thừa) và Phật giáo thời kỳ phát triển (Đại thừa). A-hàm và Nikaya là kinh tạng nguyên thủy, bộ kinh căn bản của Phật giáo thuộc thời kỳ đầu. Nguyên là nguyên sơ, thủy là đầu tiên, tức đây là những bộ kinh truyền thống chứa đựng những thông điệp giải thoát căn bản đầu tiên mà Đức Phật đã tuyên thuyết sau khi chứng ngộ dưới cội cây bồ đề tại Bồ-đề-đạo-tràng, Ấn Độ. Theo tổ Thiên Thai (Trung Hoa) thì A-hàm và Nikaya là những bài pháp thoạiđức Phật đã tuyên thuyết trong 12 năm đầu trong sự nghiệp hoằng truyền của Đức Phật như bài thơ đã minh họa ý này như sau:

Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật,

A-hàm thập nhị phương đẳng bát,

Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm

Pháp hoa, Niết bàn cộng bát niên.

Tạm dịch:

Hoa Nghiêm hai mươi mốt ngày

A-hàm mười hai, Phương Đẳng tám năm

Mười hai năm bàn về Bát Nhã

Pháp Hoa, Niết bàn thêm tám năm.

CÁC KỲ KIẾT TẬP

1) Kiết tập lần thứ nhất

Khoảng bốn tháng sau khi đức Phật nhập diệt, Tôn giả Ca-diếp làm thượng thủ, đứng ra tổ chức kỳ kiếp tập lần thứ nhất với sự tham dự của 500 vị A-la-hán tại hang Thất Diệp, thành Vương Xá. Vua A-xà-thế phát tâm cúng dường bảo trợ cho kỳ kiết tập này. Tôn giả A-nan được mời trùng tuyên lại những lời dạy của Đức Phật và chính những bài pháp thoại truyền khẩu này là nguồn gốc sâu xa để hình thành nên bộ A-hàm và Nikaya sau này.

2) Kiết tập lần thứ hai

Thời gian trôi qua, khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, có tỳ kheo Bạt-Kỳ tự lập ra mười Tịnh pháp khác hẳn giới luật của Đức Phật chế ra. Chư Tăng phóng khoáng ở phương đông tán đồng và tuân thủ theo mười điều canh tân đó trong khi Tôn giả Gia Xá và nhiều chư Tôn đức ở phương tây phản đốituyên bố đây là mười điều phi pháp. Thế là 700 tỳ kheo từ các nơi được mời về tham dự kỳ kiếp tập lần thứ hai được tổ chức tại thành Tỳ-xá-ly do tôn giả Giá Xá làm thượng thủtôn giả Ưu-ba-ly được mời tụng Luật. Vì vậy, kỳ kiết tập này chủ yếu là luật tạng, xác định lại giới luật của Đức Phật đã quy chếtuyên bố mười tịnh giớiphi pháp và nhân đây các ngài cũng kiết tập lại các kinh điển. Bởi do ý kiến bất đồng như trên, nên trong tăng đoàn Phật giáo bắt đầu hình thành hai phái là Thượng-Tọa-bộ (bảo thủ khư khư giữ đúng những gì Đức Phật chế) và Đại-Chúng-bộ (uyển chuyển thay đổi).

3) Kiết tập lần thứ ba

Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 236 năm, tức là thời Vua A-dục, đại chúng tập hợp tại thành Hoa Thị để tổ chức kỳ kiết tập lần thứ ba và tôn giả Mục-kiền-liên-tử-đế-tu được cử làm thượng thủ chủ tọa buổi kiết tập. Từ hai phái chính của Thượng tọaĐại chúng bộ nay đã phát triển thành khoảng 20 bộ phái Phật giáo. Thượng tọa bộ lúc bấy giờ được gọi là Phân biệt thuyết bộ, được hoàng đế A-dục đỡ đầu và ủng hộ mạnh mẽ. Phân biệt thuyết bộ là cha đẻ của Đồng diệp bộ và chính Đồng diệp bộ đã kiết tập năm bộ Nikàya rất đầy đủ.

Ba kỳ kiết tập trên chỉ là do truyền khẩu trùng tụng chứ chưa có nghệ thuật ấn loát xuất hiện.

4) Kiết tập lần thứ tư

Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn khoảng 400 năm, tức là vào thời vua Ca-nị-sắc-ca. Vua thấy giáo nghĩa trong 20 hệ phái Phật giáo không giống nhau nên vua phát tâm tổ chức và bảo trợ cho kỳ kiết tập lần thứ tư. Tôn giả Thế Hữu được cử làm thượng thủ chủ tọa và có bốn tôn giả phó hội là Hiếp tôn giả, Pháp Cứu, Diệu ÂmGiác Thiên. Kỳ kiết tập này các ngài đã chú thích kinh, luật, luận và tất cả được chép thành văn. Vua Ca-nị-sắc-ca cho khắc tam tạng kinh điển vào bản bằng đồng và thờ trong bảo tháp.

Tóm lại, A-hàm và Nikaya được tụng vào kỳ kiết tập lần thứ nhất, từ lần kiết tập thứ hai về sau, tức vào khoảng thế kỷ III trước công nguyênthời kỳ A-hàm và Nikaya chính thức được thành lập đầy đủ.[1]

SỰ TRUYỀN THỪA CỦA KINH A-HÀM VÀ NIKAYA

Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 100 năm, giáo đoàn thống nhất của Phật giáo Nguyên Thủy chia thành hai phái chính là Đại Chúng Bộ (phương Bắc) và Thượng Tọa Bộ (phương Nam). Kinh điển của Thượng Tọa Bộ là năm bộ kinh tạng Nikaya (Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng chi BộTiểu Bộ) được chép bằng ngôn ngữ Ấn Độ cổ đại Pàli. Kinh điển của Đại Chúng Bộ là bốn bộ A-hàm (Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm và Tăng Nhất A-hàm) được ghi lại bằng Phạn ngữ.

PHÂN LOẠI A-HÀM VÀ NIKÀYA

A-HÀM

A-hàm gồm có bốn bộ:

a/. Trường A-hàm (Dirghagama) 22 quyển do ngài Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm dịch từ Phạn ra Hán văn. Năm 1999, Phật lịch 2543, Thượng Tọa Tuệ Sĩ dịch ra Việt Văn và hiệu chú.

b/. Trung A-hàm (Madhyamagama) 60 quyển, do ngài Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm dịch từ Phạn ra Hán văn. Năm 1999, Phật lịch 2543, Thượng Tọa Tuệ Sĩ dịch ra Việt Văn và hiệu chú.

c/. Tạp A-hàm (Samyukta-agama) 50 quyển, do Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà-la dịch từ Phạn ra Hán văn. Năm 2002, Phật lịch 2546, Thượng Tọa Đức Thắng dịch ra Việt Văn và Thượng Tọa Tuệ Sỹ hiệu đính cũng như chú thích.

d/. Tăng Nhất A-hàm (Ekottara-agama) 50 quyển được Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-để-bà dịch từ Phạn ra Hán văn. Năm 2005, Phật lịch 2549, Thượng Tọa Đức Thắng dịch ra Việt Văn và Thượng Tọa Tuệ Sỹ hiệu đính cũng như chú thích. 

NIKAYA

Năm bộ Nikàya bộ chủ yếu là do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ ngôn ngữ cổ đại Pali sang Việt Ngữ. Ngài đã hiệu đính và xuất bản năm 1991.

a/. Trường bộ kinh (Dìgha - Nikàya)

b/. Trung bộ kinh (Majhima - Nikàya)

c/. Tương ưng bộ kinh (Samyutta - Nikàya)

d/. Tăng chi bộ kinh (Angttara - Nikàya)

e/. Tiểu bộ kinh (Khuddaka - Nikàya)

SỰ GIỐNG NHAU & KHÁC NHAU GIỮA A-HÀM & NIKAYA

Trường A-hàm tương đương với Trường Bộ kinh (Nikaya). Trường là những bài pháp thoại dài.

Trung A-hàm tương đương với Trung Bộ kinh (Nikaya). Trung là những bài pháp thoại vừa vừa, bậc trung.

Tạp A-hàm tương đương với Tương Ưng Bộ kinh (Nikaya). Tương Ưng là những bài pháp thoại có nội dung tương tự nhau.

Tăng Nhất A-hàm tương đương với Tăng-chi Bộ kinh (Nikaya). Tăng nhất là những bài pháp thoại sắp xếp theo con số thứ tự tăng dần.

Tiểu bộ kinh thuộc Nam truyền và bên Bắc Truyền A-hàm không có tiểu bộ này. Tiểu bộ gồm có 15 tập như 1) kinh Tiểu tụng (Khuddaka Pàtha), 2) Pháp cú (Dhammapada), 3) Cảm hứng ngữ, Phật tự thuyết (Udàna), 4) Phật thuyết như vậy (Itivuttaka), 5) Kinh tập (Suttanipàta), 6) Chuyện Thiên cung (Vimanavatthu), 7) Chuyện Ngạ quỷ (Petavatthu), 8) Trưởng lão Tăng kệ (Theragàthà), 9) Trưởng lão Ni kệ (Therigàthà), 10) Bổn sanh hay Chuyện tiền thân Đức Phật (Jàtaka), 11) Nghĩa tích (Nidesa), 12) Vô ngại giải đạo(Patisambhidàmagga), 13) Sự nghiệp anh hùng (Apadana), 14) Phật sử (Buddhavamsa), 15) Sở hạnh tạng (Cariyà Pitaka).

Như vậy, toàn bộ lời Phật dạy được chia làm hai nhóm:

a) Pháp (dhamma) tức Kinh tạng gồm bốn bộ A-hàm (Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm và Tăng Nhất A-hàm) hay năm bộ Nikaya (Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng, Tăng Chi và Tiểu Bộ).

b) Luật (vinaya) còn gọi là luật tạng, tức nguyên tắc giới luật đạo đức, oai nghi.

SỐ LƯỢNG CỦA A-HÀM & NIKAYA

1. KINH TRƯỜNG A-HÀM VÀ TRƯỜNG BỘ KINH

Kinh Trường A-hàm gồm 30 kinh.

Trường Bộ Kinh có 34 kinh.

2. KINH TRUNG A-HÀM VÀ TRUNG BỘ KINH

 Kinh Trung A-hàm có 222 kinh.

 Trung Bộ Kinh có 152 kinh.

3. KINH TẠP A – HÀM VÀ TƯƠNG ƯNG BỘ KINH 

Tạp A-hàm có1.362 tiểu kinh.

Tương Ưng Bộ gồm có 2858 tiểu kinh.

4. KINH TĂNG NHẤT A–HÀM VÀ TĂNG CHI BỘ KINH

Tăng Nhất A-hàm gồm có 472 kinh.

Tăng Chi Bộ là tuyển tập 9.557 bài Kinh.

Cộng lại toàn số lượng của bốn bộ A-hàm có khoảng (30+222+472+1362) 2.086 bản kinh và bốn bộ Nikaya có khoảng (34+152+9557+2858) 12.601 bản kinh (chưa tính Tiểu bộ kinh). Như vậy, số lượng pháp thoại Đức Phật đã để lại cho chúng ta rất nhiều.

Tóm lại, đầu tiên kinh Phật không có bản chữ viết mà chỉ dựa vào truyền khẩu trùng tụng. Sau khi, Đức Phật diệt độ mấy trăm năm, nhờ bốn kỳ kiết tập nói trên mà kinh điển được kết tập lại như những sợi chỉ ngũ sắc kết xâu lại những hạt trai của Đức Phật thành những chuỗi pháp bảo quý giá để trang nghiêm đạo tâm của chúng ta. Rồi theo thời gian các tổ mới dùng ngôn ngữ Ấn độ cổ đại Pali, Phạn ngữ để viết Tam tạng kinh điển thành bản văn hay khắc trên bản đá, bản đồng, vv... Rồi khi Phật giáo hưng thịnh, những lời dạy của Đức Phật vượt khỏi biên giới của Ấn độ để đến khắp nhiều nước trên khắp thế giới. Tam tạng kinh điển đến đâu thì tùy theo ngôn ngữ của đất nước đó mà được chuyển dịch ra. Như tại Việt Nam, kinh tạng được chuyển ngữ, xuất xứ từ ngôn ngữ Pali thì gọi là Kinh tạng Nikaya (Nam truyền) và kinh được dịch từ tiếng Hán (gốc từ Phạn ngữ) thì gọi là Kinh A-hàm (Bắc truyền).

Do đó, có thể nói kinh điển Phật giáovăn học phiên dịch tức chúng ta không học thẳng ngôn ngữ của Đức Phật mà được chuyển ngữ do vì chúng taĐức Phật vốn khác đất nước và ngôn ngữ. Tuy nhiên, nội dung giáo nghĩa của Đức Phật dạy thì bất cứ người nào, ngôn ngữ nào hay tại đất nước nào cũng có thể ứng dụng để giải thoát vì tất cả con người đều có chung bịnh tâm là tham sân si và đều bị luân chuyển sanh tử luân hồi. Nên xâu chuỗi trai pháp bảo quý giá của Phật giáo có khả năng phục vụ như một phương thuốc hữu hiệu vô giá, có khả năng trị bịnh tâm và bịnh sanh tử của tất cả chúng ta nên ở đâu cũng đều có thể uống được cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23951)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41208)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27495)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26547)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29305)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33175)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25760)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31299)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38551)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21422)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44239)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29812)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42184)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45734)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29244)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33904)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27674)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21057)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28840)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21560)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22057)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19488)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19824)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19232)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29168)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23645)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31830)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39608)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19364)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24810)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21747)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22369)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29123)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20465)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23507)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35302)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24539)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant