Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Đại Bi

25 Tháng Chín 201607:51(Xem: 14800)
Kinh Đại Bi

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc,
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.
(Xem bản PDF hoàn chỉnh)


Kinh Đại Bi

 

Phẩm 1

PHẠM THIÊN

 

Đây là những điều chính tôi được nghe:

Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn sắp nhập niết-bàn, bèn bảo tôn giả A Nan rằng:

“Thầy hãy trải ngọa cụ cho Như Lai ở giữa những cây ta-la, theo tư thế nằm nghiêng về hông bên phải, như thế nằm của sư tử chúa; sau nửa đêm hôm nay Như Lai sẽ nhập niết bàn. Này A Nan! Như Lai đã rốt ráo niết bàn; đã đoạn trừ tất cả những lời nói hữu vi, lời nói của Như Lai như cam lồ, không quanh co tối nghĩa. Như Lai đã làm xong tất cả các phật sự, hoàn toàn vắng lặng, định lực sâu xa vi diệu, khó thấy, khó biết, khó suy lường. Trí tuệ sáng suốt của Như Lai hiểu biết tất cả các pháp thánh hiền. Như Lai đã ba lần chuyển bánh xe pháp vô thượng, mà các hàng sa-môn, bà-la-môn, trời, người, ma vương, không thể chuyển được. Như Lai đã đánh trống pháp, thổi loa pháp, dựng cờ pháp, chèo thuyền pháp, xây cầu pháp, rưới mưa pháp. Như Lai đã soi sáng cho ba ngàn đại thiên thế giới, diệt trừ hết tối tăm, chỉ bày cho chúng sinh con đường giải thoát, đem chánh đạo làm lợi ích cho hàng trời, người; những ai đáng độ đều đã được độ. Như Lai đã hàng phục hết tất cả các ngoại đạotà thuyết, làm chấn động các cung điện của ma vương. Như Lai đã dùng tiếng rống của sư tử chúa để làm phật sự, xây dựng sự nghiệp của bậc đại trượng phu, chu toàn thệ nguyện của các kiếp xa xưa, hộ trì pháp nhãn, dạy dỗ cho hàng Thanh-văn, thọ kí cho hàng Bồ-tát, làm cho phật nhãn không bị dứt mất ở đời vị lai. Này A Nan! Từ nay về sau Như Lai không còn gì phải làm nữa, chỉ an trú trong cảnh giới niết-bàn.”

Tôn giả A Nan nghe những lời Phật dạycảm thấy như bị tên bắn vào người, đau xót vô cùng! Tôn giả buồn khóc, nước mắt ràn rụa, bạch Phật rằng:

“Đức Thế Tôn nhập niết-bàn sớm quá! Bậc Thiện Thệ nhập niết-bàn sớm quá! Con mắt của thế gian đã diệt mất rồi! Thế gian thật là cô độc, không còn có bậc đạo sư, không còn có người cứu hộ!”

Phật bảo tôn giả A Nan:

“Này A Nan, thầy chớ lo buồn! Các pháp đã sinh, các pháp hiện hữu, các pháp hữu vi, các pháp tàn hoại, mà không hủy diệt thì đó là chuyện không thể có được. Như Lai trước đây đã từng bảo thầy rằng: Tất cả những gì mình yêu mến, ưng ý, chắc chắn rồi sẽ lìa tan. A Nan! Thầy đã dùng từ tâm, một lòng một dạ, đem cả thân tâm mà hầu hạ, chăm sóc cho Như Lai, không chút gì nề hà. Nếu có hàng trời, người, a-tu-la nào cúng dường, hầu hạ các bậc Thanh-văn, Duyên-giác trong gần một kiếp hoặc tròn một kiếp; nếu lại có người cúng dường, hầu hạ Như Lai chỉ trong một khoảnh khắc, thì phước đức của người này hơn các hàng trời, người, a-tu-la kia rất nhiều. Thầy đã cúng dường, hầu hạ đức Phật đại thần thông cho đến giờ phút nhập niết-bàn, thì công đức của thầy thật vô cùng rộng lớn, giống như vị cam lồ bậc nhất trong các vị cam lồ; đó là vị cam lồ sau cùng, là niết-bàn rốt ráo. Vì vậy cho nên, A Nan! Thầy chớ nên lo buồn!”

Bấy giờ tôn giả A Nan lau nước mắt, trải ngọa cụ cho đức Phật ở giữa những cây ta-la, theo tư thế nằm nghiêng về hông bên phải, như thế nằm của sư tử chúa. Tức thì, tất cả rừng cây hoa cỏ trong khắp ba ngàn đại thiên thế giới, đều hướng về nơi đức Phật sắp nhập niết-bàn; có cây muốn nghiêng đổ, có cây khom mình xuống, có cây cúi sát đất, có cây ngã nằm trên mặt đất. Trong khắp ba ngàn đại thiên thế giới, những con sông lớn, sông nhỏ, suối khe, vân vân, đều ngừng chảy; những loài cầm thú đều đứng lặng yên, không kêu, không ăn; tất cả mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đều mất ánh sáng; những ngọn lửa mạnh thảy đều tắt ngúm. Trong khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nhờ thần lực của Phật, tất cả lửa dữ trong chốn địa ngục đều trở nên mát mẻ; tất cả chúng sinhđịa ngục, trong phút chốc đều được an vui; tất cả các loài bàng sinh đều khởi tâm từ, thương nhau, không giận ghét, không làm tổn hại, hay giết chóc nhau; tất cả loài ngạ quỉ đều không bị đói khát; tất cả chúng sinh, thân tâm đều hết khổ não, được an lạc, đầy đủ những sự vừa ý.

Đương khi đức Thế Tôn nằm xuống, nghiêng mình về phía hông bên phải, thì trong khắp ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả đại địa, núi lớn, biển lớn, đều chấn động mạnh; gió không chuyển động; tất cả chúng sinh, trong khoảnh khắc được yên ổn, không tạo nghiệp, lìa khỏi trạng thái dật dờ, tâm không tán loạn, niệm tạo tác dứt bặt, im lặng, không tiếng tăm. Chư vị Phạm Thiên, Đế Thích, Hộ Thế Thiên Vương, do thần lực của Phật, đều thấy cung điện, hoa viên, chỗ ngồi, chỗ nằm của mình đều tối tăm, mất hết ánh sáng, không có gì đáng ưa thích, các quyến thuộc của họ đều lo phiền, không vui. Vị chúa tể của một ngàn thế giớitrời Phạm Thiên Vương và chúa tể của ba ngàn đại thiên thế giớitrời Đại Phạm Thiên vương, với tâm tự cao tự thị, suy nghĩ rằng: “Thế giới này và các chúng sinh ở trong đó, đều do ta tạo tác, do ta biến hóa ra.” Trời Đại Phạm Thiên Vương, do thần lực của Phật, thấy cung điện và chỗ ngồi, chỗ nằm của mình đều tối tăm, mất hết ánh sáng, không có gì đáng ưa thích. Trời Ma Hê Thủ La và các vị trời Tịnh Cư cũng thấy như vậy.

Bấy giờ, trời Đại Phạm Thiên Vương tự hỏi thầm rằng: “Do sức của ai mà hiện ra tướng trạng này, khiến cho ta không còn ưa thích cung điện và chỗ ngồi, chỗ nằm của ta nữa?” Trời Đại Phạm Thiên Vương liền quan sát khắp nơi trong ba ngàn đại thiên thế giới, thấy rằng, đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, sau nửa đêm nay sẽ nhập niết-bàn, cho nên đã dùng thần lực biến hóa việc chưa từng có, không thể nghĩ lường này. Thần lực này chính là tướng nhập niết-bàn của đức Như Lai. Trời Đại Phạm Thiên Vương suy nghĩ như thế xong, vừa buồn rầu không vui, vừa sợ hãi đến nỗi lông tóc dựng đứng lên. Ông cùng với chúng Phạm Thiên đang vây quanh, tức tốc đi đến chỗ đức Phật ngự. Chư vị Phạm Thiên khác trong ba ngàn đại thiên thế giới đều đã từng tin nhận thánh pháp và đang an trú trong thánh pháp.

Sau khi đã đến chỗ Phật ngự, trời Đại Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ đức Phật, và thưa rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho con: Làm thế nào để an trụ? Tu hành như thế nào?”

Đức Phật hỏi lại trời Đại Phạm Thiên Vương:

“Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Có thật ngài đã nghĩ rằng: [Ta là Đại Phạm Thiên Vương; ta là người trí; ta hơn tất cả; tất cả không ai bằng ta. Ta là vị chúa tể đại tự tại trong ba ngàn đại thiên thế giới; ta tạo tác ra chúng sinh; ta hóa hiện ra chúng sinh; ta tạo tác ra thế giới; ta hóa hiện ra thế giới.] Có thật ngài đã nghĩ như thế chăng?”

Trời Đại Phạm Thiên Vương thưa:

“Dạ đúng, con đã nghĩ như thế, bạch đức Thế Tôn!”

Đức Phật hỏi tiếp:

“Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Còn ngài thì đã do ai tạo tác ra? Do ai hóa hiện ra?”

Nghe Phật hỏi như vậy, trời Đại Phạm Thiên Vương chỉ đứng im lặng. Thấy thế, đức Phật lại hỏi tiếp:

“Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Đến thời kì hỏa tai phát động, ba ngàn đại thiên thế giới này sẽ bị lửa mạnh đốt cháy thiêu rụi; ý ngài thế nào, có phải đó là do ngài làm ra, do ngài hóa ra hay không?”

Trời Đại Phạm Thiên Vương thưa:

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Đại địa này nương nơi nước mà đứng vững, nước lại nương nơi gió, gió lại nương nơi hư không; như thế, đại địa này dầy sáu trăm tám vạn do tuần, không bị bể nát; ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Hàng trăm ức mặt trời, mặt trăng đang lưu chuyển trong ba ngàn đại thiên thế giới này; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Sẽ có lúc các vị thiên tử của mặt trời, mặt trăng không còn ở trong các cung điện nữa, các cung điện ấy bấy giờ sẽ trống rỗng; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Thời tiết bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Mặt nước bằng phẳng sáng như gương, chất mềm mại mượt mà như bơ, tánh trong suốt của ngọc ma ni, pha lê, cùng các màu sắc và hình tượng hiện ra từ các khí cụ khác; rồi những thứ như đại địa, núi sông, rừng cây, vườn hoa, cung điện, nhà cửa, thành ấp, xóm làng, lạc đà, lừa ngựa, hươu nai, chim thú, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, Phật, Bồ-tát, Duyên-giác, Thanh-văn, Phạm Thiên, Đế Thích, Hộ Thế Thiên Vương, người, những loài chẳng phải người, vân vân, bao nhiêu là màu sắc và tướng trạng; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Những nơi như sườn núi, hố sâu; những âm thanh phát ra từ trống lớn, trống nhỏ, ca kịch, nai kêu, thú rống, chim hót, người nói, vân vân; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Trong khi nằm mộng, người ta thấy mọi thứ màu sắc, nghe mọi thứ âm thanh, ngửi mọi thứ mùi hương, nếm mọi thứ vị, biết mọi thứ cảm xúc, rõ mọi thứ pháp trần, nào cười đùa, nào khóc lóc kêu la, nào sợ sệt, nào đau khổ, nào vui sướng, vân vân, đủ các thứ cảm thọ; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Như người trong bốn chủng tộc, có người đoan chính, có người xấu xí, có người nghèo khó, có người giàu sang, có người phước đức ít, có người phước đức nhiều, có người giữ giới lành, có người giữ giới ác, có người dùng trí để làm việc lành, có người dùng trí để làm việc ác; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Tất cả chúng sinh thường bị khổ não do nhiều nỗi sợ hãi: nào những tai nạn về nước, lửa, gió và đao binh; nào những sự nguy hiểm trên sườn núi, bên bờ sông; nào những nguy hại của thuốc độc, ác thú, sự cừu oán của loài người và những loài không phải người, và còn bao nhiêu thứ độc hại khác nữa; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Chúng sinh có nhiều tật bệnh: nào bị gió, bị nóng, bị lạnh; nào thời tiết thay đổi bất thường; nào bốn đại không điều hòa; những chứng bệnh về mắt, về tai, về mũi, về lưỡi, về thân, hoặc do họ tự tạo ra, hoặc do quả báo từ đời trước; rồi còn bao nhiêu khổ não trong tâm ý; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Chúng sinh thường bị các tai nạn như nước lụt, giặc cướp, đao binh, đói khát, dịch bệnh; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Chúng sinh ai cũng bị đau khổ khi những kẻ thân yêu như cha mẹ, anh chị em, họ hàng quyến thuộc, các bạn lành, bỗng chốc mà phải sinh li tử biệt; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Chúng sinh tạo ra nhiều nghiệp nhân khác nhau, từ đó mà nhận chịu nhiều quả báo khác nhau ở các chốn địa ngục, ngạ quỉ, bàng sinh, người và trời; chúng sinh dùng thân, miệng, ý để làm các việc lành, mà cũng dùng thân, miệng, ý để làm các việc ác. Thế gian có mười loại nghiệp ác: giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói lời hung ác, tham lam, sân hận, tà kiến; người làm mười nghiệp ác này, đối với chúng sinh hoàn toàn không có chút lòng từ, không đem lại lợi ích an vui, mà chỉ gây ra khổ não, làm nhân duyên đọa lạc vào các nẻo ác. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Chúng sinh phải chịu nhiều sự đau khổ: nào bị chém đầu, chặt đứt tay chân, xẻo tai cắt mũi, xương cốt gẫy nát; nào bị dầu sôi tưới trên mình, bị lửa thiêu đốt; nào bị roi đánh, bị đao kiếm hay các vật nhọn đâm vào người; nào bị kiện tụng, bị giam cầm tù ngục, vân vân. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Chúng sinh tạo nghiệp tà hạnh, cùng nhiều nghiệp xấu khác; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Chúng sinh tạo nghiệp giết hại, cùng nhiều nghiệp xấu khác; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Thế gian có các tướng trạng sinh già bệnh chết; đầy dẫy những điều gây ra lo buồn khổ não cho cả các chủng tộc, không trừ một ai; các pháp đều vô thường, biến đổi, tận diệt; tất cả những vật làm cho người ta ưa thích không nhàm chán, cũng đều phải bại hoại, lìa tan; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Chúng sinh bị các tánh xấu tham sân si cùng nhiều điều khổ não khác trói buộc ngăn che, làm cho tâm bị mê hoặc, tạo ra vô số hành nghiệp; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Có ba đường ácđịa ngục, ngạ quỉsúc sinh, ở đó chúng sinh phải chịu vô lượng đau khổ; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Tất cả những thứ sinh ra từ đất nước như cây cỏ hoa trái; những thứ có mùi, và đủ loại vị ngọt mặn đắng cay chua chát, chúng sinh ưa thích thứ nào thì làm cho nó phát triển, không thích thứ nào thì bỏ đi; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

“Chúng sinh bị vô minh che phủ, kết chặt với ái dục, để rồi phải lưu chuyển mãi trong năm nẻo đường, lúc sinh lúc tử, khi thành khi hoại, đi chỗ này đến chỗ kia, không biết đâu là đầu, đâu là cuối; cứ thế mà trôi lăn, mà chịu tơ rối cột trói mãi trong thế gian, không mong cầu ra khỏi; thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ý ngài thế nào, đó có phải là do ngài làm ra, do ngài hóa ra, do ngài gia trì hay không?”

“Dạ không phải vậy, bạch đức Thế Tôn!”

Đức Phật hỏi tiếp:

“Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Thế thì do nguyên nhân nào mà ngài nghĩ rằng: [Các chúng sinh đây là do ta tạo ra, do ta biến hóa, do ta gia trì; thế giới hiện có đây là do ta tạo ra, do ta biến hóa, do ta gia trì]?”

Trời Đại Phạm Thiên Vương thưa:

“Bạch đức Thế Tôn! Con do không có trí tuệ, tâm tà kiến điên đảo chưa đoạn trừ, chưa được nghe và tin nhận chánh pháp do đức Thế Tôn giảng dạy, cho nên đã có những ý nghĩlời nói điên cuồng như thế. Bạch đức Thế Tôn! Bây giờ đây, xin cho con được hỏi lại đức Thế Tôn về nghĩa lí ấy: Thế giới hiện có đây là do ai tạo ra, do ai biến hóa ra? Tất cả chúng sinh do ai tạo ra, do ai biến hóa ra, do ai gia trì, do sức gì sinh ra?”

Đức Phật dạy:

“Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Thế giới này do nghiệp tạo ra, do nghiệp biến hóa ra; tất cả chúng sinh là do nghiệp tạo ra, do nghiệp biến hóa ra, do sức nghiệp sinh ra. Vì sao thế? Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Do vô minh mà có hành, do hành mà có thức, do thức mà có danh sắc, do danh sắc mà có lục nhập, do lục nhập mà có xúc, do xúc mà có thọ, do thọ mà có ái, do ái mà có thủ, do thủ mà có hữu, do hữu mà có sinh, do sinh mà có lão tử và lo buồn đau khổ chồng chất thành khối lớn lao như thế. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Nếu vô minh diệt thì hành cho đến lão tử cũng diệt, và khối lo buồn đau khổ chồng chất kia cũng không còn. Sự việc đó không do ai tạo ra, không do ai bảo ai tạo ra, không do ai an bài; chỉ có nghiệp và pháp! Nghiệp và pháp hòa hợp làm nhân duyên có ra chúng sinh. Nếu ai xa lìa được sự hòa hợp của nghiệp và pháp thì sẽ vĩnh viễn không còn lưu chuyển trong sinh tử. Như thế, thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, hễ nghiệp dứt sạch thì phiền não dứt sạch, và đau khổ cũng dứt sạch. Đó tức là ‘xuất li’, cũng gọi là ‘được niết-bàn tịch tịnh’. Và như vậy, thưa Ngài Đại Phạm Thiên Vương! Ai được niết-bàn thì có nghĩa là người đó đã dứt hết nghiệp, đã xa lìa phiền não, không còn khổ đau. Những pháp đó là do thần lực của chư Phật, do sức gia trì của chư Phật mà có. Vì sao vậy? Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Nếu không có chư Phật ra đời để giảng nói rõ ràng, thì không ai được nghe những pháp như vậy. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Nếu vào lúc chư Phật ra đời, có ai được nghe giáo pháp sáng suốt sâu xa khó hiểu như vậy, người được nghe pháp Sinh thì sẽ từ pháp Sinh mà được giải thoát; người được nghe các pháp Già, Bệnh, Chết, Lo Buồn, Khổ Não, thì sẽ từ những pháp Già, Bệnh, Chết, Lo Buồn, Khổ Não ấy mà được giải thoát. Vì vậy cho nên, thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, chư Phật ra đời để làm như thế, tức là chỉ bày, giảng nói rõ ràng rằng: Các hành là vô thường, biến đổi, không nhất định, không rốt ráo, giống như điện chớp. Giả sử sau khi chư Phật diệt độ mà chánh pháp ẩn mất, thì ý nghĩa cũng giống như vậy; tức là chư Phật ra đời để khai thị, rằng các hành như điện chớp. Nếu chư Phật không xuất hiện ở đời, tất cả các hành vẫn chuyển biến từng khoảnh khắc, như điện chớp, nhưng sẽ không có ai nói các hành giống như điện chớp, như mộng huyễn, như tiếng vang. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Chư Phật do thấy rõ tất cả các hành là chuyển động, là vô thường, là pháp biến đổi, là pháp tận diệt, như điện chớp, như mộng huyễn, như tiếng vang; cho nên đã dạy: [Các hành như điện chớp, như mộng huyễn, như tiếng vang.] Người trí nghe lời dạy ấy, bèn quan sát tướng trạng của các pháp, hiểu được ý nghĩa của lí nhân duyên, cho nên cũng thấy rõ được các hành là chuyển động, là vô thường, là pháp biến đổi, là pháp tận diệt. Các pháp luôn luôn bị li tán, bị hủy hoại, như thời tiết luôn luôn thay đổi. Sự trạng ấy có thể xảy ra trong khoảnh khắc, có thể trong một ngày, một đêm, hay nửa tháng, một tháng, hoặc lâu hơn như một năm, trăm năm; nhưng dù có kéo dài đến một kiếp hay trăm kiếp, thì tất cả cũng phải hoại diệt; gặp các tai nạn lớn như lửa đốt, nước cuốn, gió bay, tất cả đều phải hoại diệt; đại địathế giới, có rồi cũng hoàn không; các núi lớn như thiết vi, đại thiết vi, tu-di và các núi đen, có rồi cũng hoàn không; mặt trời, mặt trăngtinh tú, có rồi cũng hoàn không, có lúc sẽ mất hết ánh sáng, không còn chiếu soi, rồi rớt xuống bể nát; các cung điện của chư thiên, có rồi cũng sẽ tiêu diệt; các nơi như kinh đô, thành ấp, xóm làng, rừng cây, ao hồ, vườn tược, dù xinh đẹp, nhưng đã có sinh thì tất phải có diệt; tất cả trời, người, sinh rồi lại diệt, diệt rồi lại sinh… Những người có trí thấy rõ tướng trạng của các pháp như thế thì tâm sinh nhàm chán, muốn xa lìa các pháp vô thường, biến đổi, tận diệt ấy; cho nên dùng lòng tin bình đẳng, bỏ nhà đi xuất gia; đã biết rõ các hành như điện chớp, như mộng huyễn, như tiếng vang, lại thấy bóng mặt trời mặt trăng, tinh tú, vân vân in trong nước, do suy nghiệm những sự trạng ấy mà thấu rõ đạo lí nhân duyên của vạn pháp, cho nên đạt được giác ngộ. Cũng có những người trí, nhờ được Phật chỉ dạy và các thiện hữu tri thức giúp đỡ, hoặc tự mình suy nghĩ mà biết rõ các hành là vô thường, như điện chớp, như mộng huyễn, như tiếng vang; rồi phát khởi lòng tin, bỏ nhà đi xuất gia, hoặc chứng được quả Tu-đà-hoàn, hoặc quả Tư-đà-hàm, hoặc quả A-na-hàm, hoặc quả A-la-hán; nếu theo con đường đại thừa thì sẽ chứng được bậc Nhẫn đầu tiên, hoặc bậc Nhẫn thứ nhì, hoặc bậc Nhẫn thứ ba, hoặc cao hơn nữa, có thể đạt đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Giả sử sau khi chư Phật diệt độ, những giáo pháp như trên vẫn được lưu bố trong thế gian, thì các chúng sinh được nghe giáo pháp ấy sẽ được cứu độ ở một trong ba thừa, là Thanh-văn thừa, Duyên-giác thừa và Vô thượng Phật thừa. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Ngài nên biết, giáo pháp này trước sau đều do chư Phật chỉ dạy; cho nên người trí quán sát thấy tướng trạng của các pháp hành thì tâm sinh nhàm chán, xa lìa, vì họ biết rõ rằng, các pháp hànhvô thường, là đau khổ, là động chuyển, không nhất định, biến đổi, tận diệt, như điện chớp, như mộng huyễn, như tiếng vang. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Các pháp này cũng là cảnh giới của chư Phật, được chư Phật chỉ dạy; có các chúng sinh đã từng tu tập, được nghe chánh pháp, phát sinh lòng kính tin, thấy rõ các hành là vô thường, là hoại diệt, như điện chớp, như mộng huyễn, như tiếng vang; có những người đã từng tu phạm hạnh với chư Phật, hoặc có người ở tại nhà thọ trì cấm giới, nhờ đó mà hiểu rõ các hành là vô thường, là hoại diệt, như diện chớp, như mộng huyễn, như tiếng vang; biết như thế rồi thì phát khởi lòng tin, bỏ nhà đi xuất gia, tuy vào lúc đó chư Phật chưa ra đời, nhưng do đã gieo trồng căn lành với chư Phật, do được chư Phật gia trì, người đó cũng đạt được đạo quả Bồ-đề. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Ngài nên biết rằng, tất cả đều là cảnh giới của chư Phật, được chư Phật gia trì; ba ngàn đại thiên thế giới này không phải là quốc độ của Phạm Thiên, cũng không phải là quốc độ của ngoại đạo, mà chính là quốc độ của chư Phật. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương! Như lai đã tu tập hạnh Bồ-tát trải qua vô lượng kiếp, đã gieo trồng căn lành với vô số chư Phật, nào hành trì cấm giới, nào khổ tu phạm hạnh, thực hành vô lượng các pháp tu khổ hạnh khó khăn; nay nhiếp thọ thế giới này để sửa sang thành Phật độ thanh tịnh, nếu có chúng sinh tu căn lành thì tùy theo mức độ tu tập của họ mà có lúc sẽ được cứu độ. Từ lâu xa, Như Lai luôn luôn dùng bốn phép thu phục để thu nhiếp chúng sinh, đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Các chúng sinh kia do theo sức thệ nguyện của Như Lai mà sinh về Phật độ này, nghe Như Lai nói pháp liền thông hiểu kính tin, không tin tưởng nơi Phạm Thiên, Đế Thích, hoặc các vị Hộ Thế Thiên Vương. Thưa ngài Đại Phạm Thiên Vương, ngài nên biết như thế, đây là Phật độ, chứ không phải là quốc độ của Phạm Thiên, của Đế Thích, của Hộ Thế Thiên Vương, lại càng không phải là quốc độ của ngoại đạo.”

Lúc bấy giờ, trời Đại Phạm Thiên Vương và hàng trăm, ngàn chúng Phạm Thiên, cùng lộ vẻ buồn rầu, nói với nhau rằng: Chỉ có chư Phật Thế Tôn mới thông đạt giáo pháp thắng diệu hi hữu như thế. Trời Đại Phạm Thiên Vương thầm xưng tán chư Phật rằng: Vì chư Phật hi hữu, mới có vô lượng cảnh giới không thể nghĩ bàn! Tức thì, trời Đại Phạm Thiên Vương xin qui y làm đệ tử Phật, rồi thỉnh cầu rằng:

 “Bạch đức Thế Tôn, bậc Đại Sư của con! Cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho con: Làm thế nào để an trụ? Nên tu hành như thế nào?”

Đức Phật dạy:

“Này Đại Phạm Thiên Vương! Cõi thế giới ba ngàn này là quốc độ của Phật, nay Như Lai đem phó chúc cho ông. Ông nên thuận theo Như Lai, đừng để cho con đường chân thật bị đoạn tuyệt; đừng để cho ba con mắt vô thượng là mắt Phật, mắt Pháp và mắt Tăng bị đoạn tuyệt; đừng để chính mình sau cùng trở thành kẻ hủy diệt chánh pháp! Này Đại Phạm Thiên Vương! Sẽ có trưởng tử của Như Laiđại Bồ Tát Di Lặc, sinh ra từ miệng Phật, hóa hiện từ pháp Phật, tâm đại bi thương xót chúng sinh, muốn chúng sinh được lợi lạc, an ổn; sẽ bổ xứ làm Phật cũng ở ngay cõi thế giới ba ngàn này, giống như Như Lai ở đây, không có gì khác biệt. Hiện tại ông đã tùy thuận theo sự giáo hóa của Như Lai, thì cũng nên tùy thuận theo đức Phật tương lai kia, đừng để cho con đường chân thật, con mắt Phật, con mắt Pháp, con mắt Tăng bị đoạn tuyệt. Vì sao vậy? Này Đại Phạm Thiên Vương! Cho đến khi nào mẹ của giáo pháp không bị đoạn tuyệt, thì con mắt Phật, con mắt Pháp, con mắt Tăng cũng không bị đoạn tuyệt; con mắt Phạm Thiên, con mắt Đế Thích, con mắt trời, con mắt người, con mắt giải thoát, cho đến con mắt niết-bàn cũng không bị đoạn tuyệt. Vì vậy cho nên, này Đại Phạm Thiên Vương, hôm nay Như Lai đem Phật độ ba ngàn đại thiên thế giới này phó chúc cho ông. Này Đại Phạm Thiên Vương! Những gì Như Lai đã dạy, ông nên tùy thuận, đừng để chính mình sau cùng trở thành kẻ hủy diệt chánh pháp!”

Tất cả chúng Phạm Thiên ở trong ba ngàn đại thiên thế giới đều đã có tâm chánh tín đối với chánh pháp từ trước, giờ đây, Đại Phạm Thiên Vương, vị trời tối cao của chúng Phạm Thiên, cũng tức thì có được lòng tin chân chánh, sâu xa đối với chánh pháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28934)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20653)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19398)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30456)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36388)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33182)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35511)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20943)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21904)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25243)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25770)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31230)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18549)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25122)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23750)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28905)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20836)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31428)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25527)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29694)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22485)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25696)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23249)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25725)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23713)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40582)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23333)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22424)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22064)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23494)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16948)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23270)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24286)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41063)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18965)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20462)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27707)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38086)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34045)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36765)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23973)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29164)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60112)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27576)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68690)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24491)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24456)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22663)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26330)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26503)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20785)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20034)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27534)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46373)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53543)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23584)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21071)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25544)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29230)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188792)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant