Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 2: Thương Chủ

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 4840)
Phẩm 2: Thương Chủ

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

Kinh Đại Bi 2

 

Phẩm 2

THƯƠNG CHỦ

 

Lúc bấy giờ, con của ma vương tên là Thương Chủ, vốn đã có lòng kính tin thâm sâu đối với đức Phật từ lâu, nay nghe Phật sắp nhập niết bàn thì rất đau buồn, vội vàng đến chỗ Phật ngự. Sau khi đảnh lễ đức Phật, ông lui xuống đứng một bên, bạch rằng:

“Cúi xin đức Thế Tôn thương xót chúng sinh, vì đem lại an lạc cho chúng sinh, vì cứu hộ thế gian, làm lợi ích cho khắp trời, người, mà trụ thế lâu một kiếp, không vội nhập niết-bàn! Con cũng vì thương xót trời, người, mà thỉnh cầu như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Xin đức Thế Tôn đừng để cho chúng sinh sớm trở thành những kẻ mù tối, không ai dạy dỗ, không ai hướng dẫn, không ai cứu hộ, không có chỗ nương tựa, không có nơi hướng về!”

Đức Phật dạy:

“Này Thương Chủ! Trước đây, thân phụ của ông là Ba Tuần, đã thỉnh cầu Như Lai nhập niết-bàn; và Như Lai đã tùy thuận theo ý của thân phụ ông mà hứa nhập niết bàn. Bởi vậy, hôm nay đã đến lúc Như Lai thực hiện lời hứa ấy mà nhập niết-bàn.”

Thương Chủ lại thưa:

“Bạch đức Thế Tôn! Ông ấy là ma vương Ba Tuần, không phải là thân phụ của con, cũng không phải là bạn tốt của con! Ông ấy thường bảo con giết hại, cho nên, đó là ác tri thức, là oan gia của con. Ông ấy không muốn cho con được an vui, hòa hợp, an ổn, mà chỉ muốn con làm các việc cực ác, hủy báng trời người để gây oán kết thù; không muốn làm lợi ích cho thế gian, mà chỉ muốn làm việc hủy diệt. Ông ấy luôn luôn muốn thổi tắt cây đuốc lớn, ngọn đèn sáng của bậc Đại Trí. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Trong chốn trời, người, có xuất hiện một kẻ độc ác cùng cực.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Có kẻ không phát tâm làm lợi ích cho mình, làm lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho nhiều chúng sinh.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Trong thế gian có kẻ không muốn làm lợi ích cho trời, người, a-tu-la, sa-môn, bà-la-môn, vân vân; cũng không muốn cho mọi người được hòa hợp, an ổn, mà chỉ muốn tất cả đều phải chịu khổ não.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Con từng được nghe đức Thế Tôn dạy rằng, có hai hạng người: một là đúng pháp, hai là không đúng pháp. Con nghĩ rằng, lời hứa nhập niết-bàn của đức Thế Tôn đối với Ba Tuần là không đúng pháp; cúi xin đức Thế Tôn đừng giữ lời hứa đó. Xin đức Thế Tôn thương xót chúng sinh mà bỏ lời hứa đó, trụ thế một kiếp để đem lại lợi íchan ổn cho trời người và tất cả chúng sinh. Xin đức Thế Tôn đừng nhập niết-bàn quá sớm!”

Đức Phật bảo Thương Chủ:

“Lành thay! Lành thay! Nếu làm lợi ích cho chúng sinh thì đúng là phải như thế. Này Thương Chủ! Nếu có người dâng hiến phẩm vật lên đức vua, hoặc có người hiến tặng phẩm vật cho vị vương tử hay các vị đại thần, hoặc có người ra sức phòng vệ quốc gia, thành ấp, xóm làng, thì những người này sẽ được vua ban cho chức tước, phước lộc; đến cả con cháu, họ hàng của họ cũng được hưởng ân sủng của vua. Này Thương Chủ! Hôm nay ông đã phát lòng tin trong sạch đối với Như Lai, bậc Pháp Vương vô thượng. Với lòng tin trong sạch đó, ông đã gieo trồng căn lành nơi đất Phật, và ông sẽ hưởng được phước báo. Bây giờ Như Lai nói rõ cho ông biết. Này Thương Chủ! Do ông có căn lành phát khởi lòng tin trong sạch đối với Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai, ông sẽ là một vị Phật Bích-chi, có danh hiệu là Bi Mẫn. Này Thương Chủ! Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, và khi chánh pháp đã diệt rồi, thì ma Ba Tuần rất vui mừng. Do tâm vui mừng đó mà Ba Tuần sẽ rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì, chịu muôn vàn đau khổ. Vì sao vậy? Vì ma Ba Tuần đã sinh tâm vui mừng khi thấy ngọn đèn chánh pháp đã ẩn mất! Này Thương Chủ! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Có người khởi tâm làm ác để tự hại mình, tự hủy hoại mình.], thì nên biết rằng, người đó chính là ma Ba Tuần vậy. Vì sao thế? Này Thương Chủ! Sau khi Như Lai diệt độ, suốt trong thời kì chánh pháp còn trụ thế, Ba Tuần luôn ở tại cung ma; đến khi chánh pháp diệt mất, Ba Tuần vô cùng đắc ý, vui mừng hớn hở, thì liền trong khoảnh khắc, bị rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì! Này Thương Chủ! Ví như có người trèo lên một cây đầy hoa trái, hái lấy những trái ngon nhất để dùng; hái xong lại chặt đứt cái cành mà mình đang ngồi. Này Thương Chủ! Ý ông thế nào? Người kia lúc ấy có còn ngồi được trên cành cây đã bị chặt đứt nữa không? Lại nữa, người kia đang ngồi trên cây ăn trái một cách an ổn thích thú, bỗng dưng chặt đứt đi cái cành mà mình đang ngồi, thì có thể nói ông ta là người có trí chăng?”

Thương Chủ thưa:

“Dạ thưa không, bạch đức Thế Tôn!”

Đức Phật dạy tiếp:

“Ma Ba Tuần cũng vậy, luôn luôn mong cho Như Lai nhập niết-bàn, luôn luôn muốn hủy diệt chánh pháp do Như Lai nói. Này Thương Chủ! Cho đến bao giờ chánh pháp của Như Lai còn trụ thế, thì ma Ba Tuần vẫn ở trong cung ma; đến khi chánh pháp của Như Lai diệt mất, thì Ba Tuần lấy làm đắc ý, vui mừng hớn hở, cho nên tức khắc bị rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì. Này Thương Chủ! Trong thí dụ trên, người đang ngồi trên cây lại chặt đứt cái cành ông ta đang ngồi, thế là tự hại mình; ma Ba Tuần cũng vậy, vì muốn hại người khác mà thành ra tự hại mình. Này Thương Chủ! Sau này, khi ma Ba Tuần đã đọa vào địa ngục A-tì, chịu đau khổ cùng cực, nếu lúc đó ông ấy khởi tâm nghĩ nhớ tới Như Lai, mà tự nói rằng: [Đức Như Lai là bậc chánh biến tri, bậc nói lời chân thật, nói lời không sai quấy; là bậc thân hành động theo luật nghi, miệng nói năng theo luật nghi, ý suy nghĩ theo luật nghi. Ngài là bậc thân làm việc lành, miệng nói việc lành, ý nghĩ việc lành; cho nên có được phước báo an vui, xứng ý; còn ta là kẻ thân làm việc ác, miệng nói việc ác, ý nghĩ việc ác, cho nên phải chịu quả báo đau khổ, không xứng ý. Ngày xưa ta đối với Ngài, thân hành động chỉ tương ứng với việc ác, miệng nói năng chỉ tương ứng với việc ác, ý suy nghĩ chỉ tương ứng với việc ác; do nghiệp báo đó mà nay phải đọa địa ngục, phải chịu đau khổ cùng cực như thế này!] Bấy giờ ma Ba Tuần, do nhớ nghĩ đến những điều Như Lai đã nói mà phát khởi lòng tin trong sạch. Do đã có lòng tin trong sạch đối với Như Lai, mà ngay lúc đó, ma Ba Tuần mạng chung; và từ địa ngục ông ấy được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Vì sao vậy? Này Thương Chủ! Nếu người có ác tâm, làm điều tội lỗi đối với Như Lai, khi mạng chung sẽ đọa vào địa ngục; nếu người đem từ tâm cúng dường Như Lai, không gây ra lỗi lầm gì, khi mạng chung sẽ sinh vào những nơi tốt đẹp ở các cõi trời, người. Người ấy do có căn lành mà sẽ được gặp chư Phật; gặp được chư Phật rồi, người ấy lại tiếp tục gieo trồng căn lành; cứ tuần tự như thế cho đến khi đạt được quả tịch diệt niết-bàn. Này Thương Chủ! Ông đã có lòng tin trong sạch đối với Như Lai; và do căn lành đó mà khi đức Phật Di Lặc ra đời, ông sẽ được gặp Ngài. Được gặp Ngài rồi, ông sẽ có đầy đủ khả năng giáo hóa, khiến cho những chúng sinh còn mê ngủ, buông lung được tỉnh ngộ. Ông sẽ bảo họ rằng: [Quí vị nên dõng mãnh làm các việc lành. Gặp thời đức Phật ra đời là việc rất khó, như hoa ưu đàm, phải trải qua thời gian lâu dài mới nở một lần! Lại nữa, thân người rất khó được, tám nạn rất khó tránh. Được gặp Phật ra đời ở nơi trung châu đại quốc lại càng khó khăn vô cùng. Vì vậy cho nên quí vị hãy cẩn thận, chớ nên buông lung; hãy tinh tấn tu hành, về sau khỏi hối hận!] Này Thương Chủ! Ông bẩm thọ giáo pháp của đức Phật Di Lặc; ông nhiếp lãnh quốc độnhân dân của đức Pháp Vương vô thượng ấy, và thường đem tâm từ, tâm không độc ác, tâm không oán cừu, tâm thương xót, tâm vui vẻ, tâm che chở, để hộ trì quốc độdưỡng dục nhân dân ấy. Do căn lành này mà ông sẽ được bổ xứ ở cung ma, trở thành một vị chúa tể giàu sang, tự tại. Này Thương Chủ! Ông nhờ có căn lành mà thọ hưởng được phước báo lớn lao ở chốn trời người; trải qua tám mươi kiếp như thế, cuối cùng ông sẽ chứng quả Phật Bích-chi, danh hiệu là Bi Mẫn. Vì sao ông được như vậy? Này Thương Chủ! Vì khi vừa nghe tin Như Lai sắp nhập niết- bàn, ông liền phát khởi lòng tin trong sạch đối với Như Lai, vì khởi tâm thương xót chúng sinh, vì mong muốn cho chúng sinh được an vui, ông đã thỉnh cầu Như Lai trụ thế dài lâu mà khoan nhập niết-bàn; rồi ở trong thời kì pháp vận của đức Phật Di Lặc, ông lại thương xót các chúng sinh còn mê lầm, buông lung, mà giáo hóa, thức tỉnh họ, khiến họ quay về sống với pháp lành. Do nhân duyên đó mà ông được thọ kí làm Phật Bích-chi. Đó là quả báo thiện lành, do căn lành ông có được từ việc thỉnh cầu Như Lai trụ thế dài lâu, khoan nhập niết-bàn. Ông hãy vui mừng ưng ý!”

Lúc bấy giờ Thương Chủ lại bạch lên đức Phật:

“Bạch đức Thế Tôn! Nếu đức Thế Tôn không nhận lời thỉnh cầu của con, mà vẫn quyết định nhập niết-bàn, thì con nguyện từ nay cho đến ngày nào chánh pháp còn trụ thế, con xa lìa năm dục, chuyên giữ gìn đạo hiếu, không ham du hí, không mặc áo đẹp, không dùng tràng hoa, không xoa bột thơm, cũng không thọ hưởng phước báo của trời người. Vì sao vậy? Vì đức Thế Tôn, ánh sáng quí báu của chúng sinh, sắp xa lìa con, không còn hội họp, con hoàn toàn không còn trông thấy; vậy thì con đâu còn có gì thích thú để vui cười! Ánh sáng của ngọn đèn trí tuệ, cây đuốc trí tuệ lớn nhất, sắp ẩn mất rồi, thì con đâu còn gì nữa để vui mừng! Mặt trời đại trí với vô lượng tia sáng, có năng lực diệt trừ vô minh tối tăm, sắp tắt mất rồi, thì con còn có gì để hân hoan xứng ý, để thích thú vui cười! Viên ngọc quí của chúng sinh như thế mà con sắp phải xa lìa rồi! Đức Thế Tôn là bậc đo lường được căn tánh chúng sinh, không bỏ sót chúng sinh, cho chúng sinh ánh sáng, không khiến cho chúng sinh gây tội lỗi, không làm cho chúng sinh ngu si; là bậc tối thượng của chúng sinh, không có chúng sinh nào tương tợ, không có chúng sinh nào sánh bằng; là bậc cứu độ tất cả chúng sinh, được chúng sinh cúng dường; là bậc điều phục chúng sinh, bậc thương xót chúng sinh, bậc nói lời chân thật, nói đúng thời, nói trước sau như một; là bậc an trú trong tâm đại từ bi, tâm không chướng ngại đối với chúng sinh, tâm luôn bình đẳng đối với chúng sinh; là bậc không hí luận, không chấp trước vào ngã và ngã sở hữu, không cất chứa, không ỷ lại, không quanh co, không hiểm hóc, không cáu bẩn; là bậc cứu giúp chúng sinh, hướng dẫn chúng sinh, hóa độ chúng sinh, phòng hộ cho chúng sinh, cởi trói cho chúng sinh, dưỡng dục chúng sinh, dạy dỗ chúng sinh, giúp chúng sinh nhớ nghĩ tới căn lành của mình, khiến cho chúng sinh tỉnh ngộ; là bậc nhổ mũi tên độc, bậc y vương trị tâm bệnh, bậc cho thuốc tốt; là bậc rốt ráo vượt thoát biển khổ, bậc đạo sư thuyết pháp; là vị thương chủ sắp khởi hành, vị hướng đạo chỉ cho chỗ nước cạn, người giữ tay lái, người cầm đuốc, người làm ra ánh sáng và chiếu ra ánh sáng rực rỡ; là bậc dẫn đường đưa người đến quốc độ an ổn, xa lìa nơi hoang sơ nguy hiểm; là bậc xa lìa trọn vẹn tham sân si, xa lìa kiêu mạn, xa lìa hết mọi kết sử, mọi phiền não; là bậc điều ngự trượng phu vô thượng, bậc có đầy đủ mười lực, bốn điều không sợ sệt, mười tám pháp không cùng chung; là bậc có đầy đủ vô lượng pháp tạng, bậc thí chủ tối thắng luôn làm cho chúng sinh vui vẻ, bậc luôn an trú trong cảnh giới đại định, bậc trí tuệ vô luợng, trí tuệ không chướng ngại, luôn an trú trong cảnh giới đại tuệ; là bậc đã vượt qua khỏi vũng bùn lầy, đã đến bờ bên kia, an trúbờ bên kia; là bậc an trú ở nơi không còn sợ sệt, dứt trừ nỗi sợ sệt cho tất cả chúng sinh, an ủi tất cả chúng sinh; là chỗ nuơng tựa vững vàng, bền chắc cho chúng sinh như thế, mà sau nửa đêm hôm nay con sẽ phải biệt li, không còn thấy trở lại được nữa! Bạch đức Thế Tôn! Con sẽ không còn được nghe tiếng rống sư tử của đức Thế Tôn ở trước đại chúng nữa, thì con còn có gì để hân hoan xứng ý, để thích thú vui cười! Bạch đức Thế Tôn! Như có những người được hưởng phước lộc của vua, sau khi vua mạng chung rồi, lòng rất buồn khổ. Họ biết ơn vua, nhớ nghĩ đến ơn vua, giữ lòng trung hiếu đối với vua; hoặc một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, hoặc nửa tháng cho đến một tháng, họ nhớ tưởng vua mà rơi nước mắt. Bạch đức Thế Tôn! Con cũng như vậy. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, trong suốt thời gian chánh pháp còn trụ thế, con xa lìa năm dục, chuyên giữ gìn đạo hiếu, không ham du hí, không mặc áo đẹp, không dùng tràng hoa, không xoa bột thơm, cũng không thọ hưởng phước báo của trời người.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19862)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28975)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19446)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30504)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36431)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33236)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35572)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20991)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21926)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25263)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25800)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31268)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25146)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23776)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28945)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20869)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22529)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23288)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25753)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23727)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40617)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22454)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22102)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24318)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41111)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18997)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20493)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27730)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38129)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34081)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36791)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24005)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29200)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60166)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27623)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68751)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24539)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24504)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22720)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26375)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26551)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20825)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20067)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27556)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46444)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53588)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25583)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29272)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant