Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 8: Lễ Bái

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5250)
Phẩm 8: Lễ Bái

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 
Kinh Đại Bi

 Phẩm 8

LỄ BÁI


Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Nếu có người nghe được danh hiệu của Phật, Như Lai nói rằng, người đó chắc chắn sẽ được vào niết-bàn. Này A Nan! Nếu có người xưng niệm ‘Nam mô Phật’, sự việc đó có ý nghĩa gì?”

Tôn giả A Nan bạch rằng:

“Phật là gốc của tất cả các pháp. Phật là con mắt dẫn đường. Phật diễn nói tất cả giáo pháp. Lành thay, bạch đức Thế Tôn! Cúi xin đức Thế Tôn vì chư vị tì-kheo mà giảng rõ ý nghĩa ấy. Chúng con xin lắng nghe và nguyện thọ trì.”

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

“A Nan! Thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ chín chắn, Như Lai sẽ vì thầy mà giảng nói. Này A Nan! Câu ‘Nam mô Phật’ chắc thật là âm thanh danh hiệu của chư Phật Thế Tôn. Vì để quyết định đây là âm thanh danh hiệu của chư Phật, cho nên xưng niệm ‘Nam mô Phật’. Này A Nan! Để làm rõ ý nghĩa này, Như Lai sẽ nói một thí dụ sau đây, khiến cho chúng sinh tăng trưởng lòng tin đối với giáo pháp; lại khiến cho tất cả thiện nam tín nữ, khi nghe được âm thanh danh hiệu của chư Phật Thế Tôn, liền phát sinh lòng kính tin sâu xa. Này A Nan! Hồi đời quá khứ, có một vị đại thương chủ dẫn theo các thương nhân đi ra biển cả. Khi thuyền của họ đã ra khơi, thình lình một con cá ma-kiệt rất lớn lao tới, há miệng muốn nuốt hết mọi người. Lúc ấy, vị thương chủ và các thương nhân vô cùng hoảng hốt, lông tóc dựng đứng. Tất cả thương nhân đều kinh sợ, lo lắng cho mạng sống sắp chấm dứt, không ai cứu hộ, không có chỗ nương cậy. Họ buồn khóc thảm thiết, than rằng: [Ôi đau đớn thay! Nơi đất liền sao mà vui thế, sao mà hiếm có như thế! Thế gian thân người khó được; thế mà giờ đây chúng ta sắp phải xa lìa cha mẹ, anh chị em, vợ con, họ hàng, bè bạn! Chúng ta lại cũng không còn thấy được Phật, Pháp và Chúng Tăng!] Họ càng than thở thì càng lo âu, đau buồn. Chẳng biết cách nào khác, họ đành cầu khẩn chư vị thiên thần cứu giúp họ. Nhưng, này A Nan! Vị thương chủ kia vốn là người có chánh kiến, tâm trí sáng suốt, đầy đủ lòng tin thanh tịnh đối với Phật Pháp Tăng; không tin thờ chư vị thiên thần. Lúc bấy giờ ông bảo các thương nhân rằng: [Chư vị nên biết! Nếu muốn thoát khỏi được ách nạn này, chư vị hãy cùng lúc đồng thanh nói theo tôi. Giả sử không thoát khỏi được ách nạn ngày hôm nay, thì những lời nói này cũng khiến cho chúng ta đời sau được sinh vào các cõi lành.] Các thương nhân nghe như vậy, đồng nói rằng: [Thưa ngài thương chủ, chúng tôi nguyện nghe theo lời dạy bảo của ngài, xin ngài cứ nói!] Này A Nan! Lúc đó, vị thương chủ liền trật vai áo bên phải, quì gối xuống sàn thuyền, nhất tâm niệm Phật, chắp tay lễ lạy, lớn tiếng xướng lên rằng: ‘Nam mô chư Phật, bậc đại vô úy, bậc đại từ bi, bậc thương xót tất cả chúng sinh.’ Ông xướng như vậy ba lần. Tiếp theo, các thương nhân chắp tay lễ lạy, cùng nhau đồng xướng lên rằng: ‘Nam mô chư Phật, bậc bố thí vô úy, bậc đại từ bi, bậc thương xót tất cả chúng sinh.’ Họ cũng cùng xướng ba lần như vậy. Lúc bấy giờ, con cá ma-kiệt kia nghe được âm thanh danh hiệu của chư Phật, liền sinh lòng quí kính, dứt bỏ tâm giết hại, ngậm miệng lại. Này A Nan! Vị đại thương chủ cùng các thương nhân, bấy giờ đều được thoát nạn, chèo thuyền trở về đất liền bình an. Riêng con cá ma-kiệt, do nghe được âm thanh danh hiệu của chư Phật mà sinh tâm vui mừng, lại dứt bỏ tâm giết hại chúng sinh, nên sau đó mạng chung, được sinh lên làm người, được gặp Phật pháp, phát khởi lòng tin thanh tịnh, bỏ nhà đi xuất gia, được thân cận các bậc thiện tri thức, chứng quả A-la-hán, có đầy đủ sáu thần thông, rồi nhập vô dư niết-bàn. Này A Nan! Thầy xem đấy, con cá kia vốn sinh làm loài súc sinh, nhưng vì được nghe danh hiệu Phật mà được sinh làm người; đã được sinh làm người lại được xuất gia; đã xuất gia lại được chứng quả A-la-hán và nhập niết-bàn! Này A Nan! Thầy xem đấy, thần lực của chư Phật là như thế đó. Con cá kia nghe được danh hiệu Phật mà được thần thông. Xưng dương danh hiệu Phật thì nhất định có được lợi ích lớn; huống chi, nếu có người được nghe danh hiệu Phật, lại được nghe chánh pháp, được trồng căn lành ngay ở đất Phật, mà không được lợi ích lớn lao ư?

“Này A Nan! Như lúc trước Như Lai đã nói, trồng căn lành một vài phần thì sẽ được phước báo một vài phần; trồng căn lành toàn phần thì sẽ được phước báo toàn phần. Này A Nan! Người trồng căn lành ‘một vài phần’, có nghĩa, người này vì muốn chóng được thành tựu, nên gieo hạt giống Thanh-văn, được nhập vào Thanh-văn thừa, và do căn lành ấy mà chứng được đầy đủ quả vị của hàng Thanh-văn; hoặc có người gieo hạt giống Duyên-giác, được nhập vào Duyên-giác thừa, và do căn lành đó mà chứng được đầy đủ quả vị của hàng Duyên-giác. Này A Nan! Đó là ý nghĩa của câu ‘trồng căn lành một vài phần’ mà Như Lai vừa nói. Còn câu ‘trồng căn lành toàn phần’ là chỉ cho người từ vô thỉ đến nay, luôn gieo trồng hạt giống Phật nơi đất Phật. Tất cả các căn lành tích tập trải qua thời gian tu hành lâu xa đó sẽ tạo nên nhân duyên được gặp chư Phật. Được gặp chư Phật rồi, người đó lại muốn tích tập đầy đủ căn lành cho quả vị Bồ-đề. Khi đã tích tập đầy đủ căn lành cho quả vị Bồ-đề, thì người đó thành tựu quả Phật, được tôn xưng là đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri; thanh danh vang động khắp thế gian. Đó gọi là ‘tu hành toàn phần’. Này A Nan! Sự ‘tu hành toàn phần’ này, trước đây rải rác trong các kinh, Như Lai đã nói rõ, thầy nên tuần tự đọc tụng để hiểu biết. Thầy hãy nhớ: Tu hành một ít phần thì sẽ đạt được kết quả một ít phần; tu hành toàn phần thì sẽ đạt được kết quả toàn phần.

“Lại nữa, này A Nan! Trong các kinh trước đây, có chỗ Như Lai cũng nói: [Cho đến thọ trì bốn câu kệ.], là đối với những kẻ độn căn, kém trí, đức mỏng mà Như Lai tùy nghi nói như thế. Này A Nan! Như Lai vì tất cả những kẻ không có chỗ quay về mà làm chỗ quay về; vì những kẻ không nhà mà làm nhà; vì những kẻ không có người cứu hộ mà làm người cứu hộ; làm ngọn đèn sáng cho những kẻ bị tối tăm; làm con mắt cho những kẻ mù lòa. Này A Nan! Tất cả những kẻ ngoại đạo không có trí tuệ, không thể tự cứu mình thì làm sao cứu được người khác! Làm sao làm chỗ quay về cho người khác!

“Này A Nan! Như Lai là bậc Thầy dạy dỗ tất cả trời, người; là người thương xót tất cả chúng sinh. Trong đời vị lai, khi giáo pháp sắp diệt mất, sẽ có các tì-kheo và tì-kheo-ni, tuy đã được xuất gia trong giáo pháp của Như Lai, nhưng họ nắm tay trẻ nít cùng đi rong chơi, từ quán rượu này đến quán rượu khác; sống trong giáo pháp của Như Lai mà không tu phạm hạnh. Tuy họ sống bất chính như vậy, nhưng ở ngay trong kiếp Hiền này, tất cả đều đạt được đạo quả niết-bàn. Thế nào là kiếp Hiền? Này A Nan! Cõi ba ngàn đại thiên thế giới này, khi kiếp sắp hình thành, thì tất cả toàn là nước. Chư thiêncõi trời Tịnh-cư dùng thiên nhãn xem thấy thế giới này chỉ toàn là nước; nơi đó có ngàn cành hoa sen vi diệu, mỗi hoa sen đều có ngàn cánh, màu vàng chiếu ra ánh sáng vàng rực rỡ, hương thơm ngào ngạt. Chư thiên cõi trời Tịnh-cư thấy như vậy, tâm rất hoan hỉ, cùng khen ngợi rằng: [Kì lạ thay! Kì lạ thay! Thật là hi hữu! Thật là hi hữu!] Ở trong kiếp này sẽ có một ngàn đức Phật ra đời, vì vậy mà kiếp này được gọi là kiếp Hiền. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong kiếp Hiền này, sẽ còn chín trăm chín mươi sáu đức Phật ra đời; trước Như Lai, đức Phật ra đời đầu tiên là Câu Lưu Tôn, Như Lai là thứ tư, tiếp theo sau Như Laiđức Phật Di Lặc; và đức Phật ra đời cuối cùng trong kiếp Hiền này là Lô Giá; thứ tự như thế, thầy nên biết. Này A Nan! Ở trong giáo pháp của Như Lai, có những vị sa-môn mà lại làm ô nhiễm hạnh sa-môn; tự xưng là sa-môn nhưng chỉ có hình tướng giống sa-môn, vì có mặc áo ca-sa. Mặc dù vậy, trong kiếp Hiền này, kể từ đức Phật Di Lặc cho đến đức Phật cuối cùng là Lô Giá, tất cả những vị ấy đều tuần tự sẽ đạt được đạo quả niết-bàn, không sót một vị nào. Vì sao vậy? Này A Nan! Tất cả những vị sa-môn ấy, thế nào cũng có một lần phát tâm kính tin và xưng niệm danh hiệu Phật; công đức từ đó phát sinh ra, và không bao giờ tiêu mất. Này A Nan! Như Lai dùng Phật trí quán sát pháp giới, không có điều gì mà không biết. Này A Nan! Phàm tạo nghiệp trắng thì sẽ nhận được quả báo trắng; tạo nghiệp đen thì sẽ chịu quả báo đen. Nếu có người đem tâm thanh tịnh, xưng niệm một câu ‘Nam Mô Phật’, thì, này A Nan! Người ấy đã gieo trồng căn lành cho đạo quả niết-bàn, và sự gieo trồng như thế cứ được tiếp nối, chắc chắn người ấy sẽ chứng đạt tận cùng cảnh giới niết-bàn; huống chi có người được gặp Phật mà chí thành cung kính, tôn trọng cúng dường, và sau khi Phật diệt độ lại cúng dường xá-lợi! Này A Nan! Những vị sa-môn mà lại làm ô nhiễm hạnh sa-môn kia, họ tự xưng là sa-môn nhưng chỉ có hình tướng giống sa-môn thôi, thế mà, chỉ cần một lần xưng niệm danh hiệu Phật, họ cũng sẽ đạt đến đạo quả niết-bàn; huống chi họ còn sinh tâm kính tin và gieo trồng nhiều căn lành! Này A Nan! Trong ý nghĩa đó, Như Lai nói bài kệ sau đây:

“Chư Phật thật không thể nghĩ bàn,

Chánh pháp của chư Phật cũng vậy.

Nếu kính tin ‘không thể nghĩ bàn’,

Được phước báo không thể nghĩ bàn.

Các đức Như Lai trong quá khứ,

Thương xót chúng sinh, làm ánh sáng,

Cũng từng cúng dường vô lượng Phật,

Chứng ngộ Bồ-đề không kể số.

Như Lai ngày xưa thường bố thí,

Bình đẳng thương xót các chúng sinh,

Tín tâm thanh tịnh luôn tinh tấn,

Tinh cần hóa độ cho tất cả,

Quí trọng chúng sinh như cha mẹ,

Anh em, họ hàng, thiện tri thức,

Đối với thân thích không sân hận,

Chứng ngộ Bồ-đề không kể số.

Khi ta cầu đạo quả Bồ-đề,

Trải vô lượng kiếp hành bố thí,

Tâm từ bi thương xót chúng sinh,

Bỏ cả thân, đầu, mắt, máu, thịt,

Cũng bỏ cả vô lượng ngôi vua,

Bỏ cả thê thiếp cùng con cái,

Vô lượng voi, ngựa, xe quí báu,

Chỉ cầu đạo Bồ-đề vô thượng.

Trong vô lượng ngàn muôn ức kiếp,

Đến đi đều với chí tinh cần,

Tâm thanh tịnh thực hành bố thí,

cầu đạo Bồ-đề vô thượng.

Nhẫn nại nhận chịu vô lượng khổ,

Giá lạnh, nóng bức, cùng đói khát,

Dù chết không rời tâm tinh tấn,

cầu đạo Bồ-đề vô thượng.

Dù cho trăm năm hay một kiếp,

Như lai không thể nào nói hết

Lòng thương xót tất cả chúng sinh,

cầu đạo Bồ-đề vô thượng.

Khi ta còn luân hồi sinh tử,

Được gặp trăm ngàn ức chư Phật,

Đều là các bậc đại thế lực,

Ta thường dâng cúng hoa bằng vàng,

Món ăn trân quí và y phục,

Tràng hoa, hương thoa và hương bột,

Cờ, phướn, lọng che đều quí báu;

Cúng dường chư Phật như thế đó.

Đối với chúng sinh nhiều vô luợng,

Lưu chuyển trong luân hồi sinh tử,

Ta thường đến họ để an ủi.

Ta luôn thực hành hạnh bố thí,

Trì giới, nhẫn nhụctinh tấn,

Thiền định tam muộitrí tuệ;

Tu tập bốn lãnh vực quán niệm,

Bốn chánh cần và bốn thần túc,

Năm khả năng cùng năm sức mạnh;

Hành trì bảy yếu tố giác ngộ,

Tám nguyên tắc hành động chân chánh;

Tu tập các pháp trợ đạo ấy,

cầu đạo Vô-thượng Bồ-đề.

Ta dùng chánh trí tu các nghiệp,

Không xen lẫn một điều bất thiện,

Tu tập các hạnh, không buông lung,

Không một mảy may gây tội lỗi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19848)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28959)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20688)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19423)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30487)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36422)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33225)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35559)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20969)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21914)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25259)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25794)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31256)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18563)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25141)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23768)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28931)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20861)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31445)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25548)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29721)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22525)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25719)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23280)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25739)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23721)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40600)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23347)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22444)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22092)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23504)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16964)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23284)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24309)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41096)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18979)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20477)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27725)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38116)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34071)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36787)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23997)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29179)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60141)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27604)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68736)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24512)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24479)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22696)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26353)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26532)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20821)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20055)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27551)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46422)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53582)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23599)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21084)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25574)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29262)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant