Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 5: Ca Diếp

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5247)
Phẩm 5: Ca Diếp

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 
KINH ĐẠI BI

 Phẩm 5

CA DIẾP

 

Lúc bấy giờ, tôn giả A Nan đang ở bên giường của đức Phật, đau buồn, khóc lóc, nước mắt ràn rụa, đứng không muốn vững, than rằng:

“Đức Thế Tôn nhập niết-bàn sớm quá! Đấng Đại Từ Bi, viên ngọc quí của chúng sinh, ra đi sớm quá! Ngọn đèn lớn của thế gian, cây đuốc lớn của trời người, ẩn mất sớm quá! Hoa sen quí của chúng sinhthế gian ẩn mất sớm quá! Bậc long tượng của chúng sinh, bậc khéo tự điều phục, lại điều phục những chúng sinh chưa được điều phục, ra đi sớm quá! Đấng Đạo Sư vô thượng, chỉ bày cho chúng sinh con đường an ổn, ra đi sớm quá! Con mắt trí tuệ chiếu ánh sáng lớn, soi khắp thế gian, ẩn mất sớm quá! Bậc dẫn đường cho những kẻ mù lòa, bậc cha mẹ của chúng sinhthế gian, diệt độ sớm quá! Thế gian này trở thành cô độc, không nơi nương tựa! Viên ngọc quí của chúng sinh như thế, mà ngày mai con không còn trông thấy nữa, chỉ có danh hiệu là còn lưu lại mà thôi!”

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

“Này A Nan, thầy đừng đau buồn nữa! Như Lai đã từng bảo thầy, tất cả những gì, dù ưa thích, xứng ý đến đâu, đã có hòa hợp thì chắc chắn phải có lìa tan. Này A Nan! Các pháp hữu vi, pháp sinh, pháp có, pháp hiểu biết, pháp nhân duyên, pháp hoại diệt, những pháp ấy nếu không hoại diệt thì không có lẽ đó; những pháp ấy nếu thường trú thì cũng không có lẽ đó; giả sử những pháp ấy được tồn tại lâu dài thì chắc chắn cũng có lúc phải chia lìa. Vì vậy cho nên, này A Nan, thầy chớ lo buồn!”

Lúc ấy tôn giả A Nan chiêm ngưỡng dung nhan đức Thế Tôn, mắt nhìn chăm chú không rời; rồi lại suy nghĩ, lại đau buồn, khóc lóc, nghẹn ngào; rồi quì xuống đất. Đức Phật lại bảo:

“Thôi đi, này A Nan, thầy đừng đau buồn nữa! Đừng dùng sự đau buồn để khiến cho Như Lai trụ thế! Này A Nan! Như Lai đã từng bảo thầy, tất cả những gì, dù ưa thích, xứng ý đến đâu, đã có hòa hợp thì chắc chắn phải có lúc lìa tan; giả sử chúng được tồn tại dài lâu thì cũng phải hoại diệt. Các pháp hành là như vậy. Này A Nan! Thầy đã hầu hạ Như Lai, từ hành động cho đến lời nói, đều bằng tâm từ hiếu, an lạc, trước sau như một, không chút giận hờn, oán trách.”

Tôn giả A Nan đứng dậy, lau nước mắt, bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Làm sao con có thể không đau buồn! Đức Thế Tôn, bậc đại từ bi như thế, bậc đã ra khỏi thế gian, bậc thương xót tất cả thế gian, bậc được tất cả thế gian quí kính và quay về nương tựa, bậc dẫn đường cho tất cả thế gian, bậc làm lợi íchan lạc cho tất cả thế gian, bậc tôn quí của thế gian như thế, mà ngày mai con phải chia lìa!”

Tôn giả lại khóc lớn, rồi lại lau nước mắt, bạch rằng:

“Kì lạ thay, các hành chỉ là xác chếttrở thành đầy quyền năng, có thể khiến cho ngọn đèn lớn như thế, cây đuốc lớn như thế, mặt trời lớn với vô lượng ánh sáng rực rỡ như thế, ẩn mất sớm quá! Bậc trí tuệ lớn, bậc có ánh sáng lớn, ẩn mất ở thế gian sớm quá! Thế gian bây giờ cô độc, vì bậc che chở ra đi sớm quá! Đức Như Lai đầy đủ thần thông biến hóa, nay ẩn mất ở thế gian sớm quá! Bạch đức Thế Tôn, con làm sao mà không đau buồn! Bạch đức Thế Tôn, con còn tự lấy làm lạ rằng, sao trái tim của con hôm nay không bị bể nát thành trăm mảnh! Con cũng tự lấy làm lạ rằng, sao con không chết ngay trước mặt đức Thế Tôn! Chắc chắn là con đã nhờ thần lực của đức Thế Tôn gia trì; vì sao vậy? Vì chính con đã thọ nhận kho tàng Pháp Bảo do đức Thế Tôn trao truyền, ghi nhớ không quên; mà kho tàng Pháp Bảo đó lại chưa được lưu bố rộng rãi cho hàng trời, người khắp mười phương. Bạch đức Thế Tôn, con làm sao mà không đau buồn cho được!  Bạch đức Thế Tôn! Mai kia con trở về thành Ca-tì-la-vệ, mọi người trong dòng họ Thích tập họp lại, hỏi thăm về đức Thế Tôn, con biết nói làm sao với họ đây? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dòng giống Mặt-trời, đấng Pháp Vương vô thượng, bậc tôn quí trong dòng họ Thích, đã nhập niết-bàn rồi! Rồi khi đến thành Vương-xá, con sẽ nói thế nào với vua A Xà Thế? Con đâu có thể cam lòng nói với đức vua rằng, bậc Đạo Sư đã ra đi rồi, vị Y Vương có khả năng nhổ bỏ mũi tên nghiệp vô gián cho thế gian đã ẩn mất rồi! Rồi khi đến thành Xá-vệ, con sẽ nói thế nào với dân chúng trong thành? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, đấng Đại Bi thương xót thế gian đã ẩn mất rồi! Rồi khi con đến tinh xá Cấp-cô-độc trong vườn cây Kì-đà, nếu đại chúng hỏi: [Chừng nào đức Thế Tôn trở về tinh xá này?], thì con biết trả lời ra sao! Rồi khi đến thành Tì-xá-li, con sẽ nói làm sao với các vị công tử tộc Li-xa? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, bậc Tôn Sư cao cả thương xót tất cả thế gian đã ẩn mất rồi! Rồi khi có các thiện nam tín nữ từ các nơi đến hỏi, con biết trả lời cho họ làm sao? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, đấng Đại Trí của thế gian, bậc đã đoạn trừ tất cả mọi nghi hoặc, nay đã ra đi rồi! Rồi khi có các chúng tì-kheo từ các nơi xa đến, mong muốn được trông thấy đức Thế Tôn, hoặc để hỏi thăm, lễ bái, cúng dường; hoặc để hỏi pháp, hỏi giáo nghĩa; hoặc xin bố-tát; con đành phải nói với họ rằng: [Tôi không còn thấy, không còn nghe đức Thế Tôn nói pháp của các bậc thượng nhân nữa!] Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, có những bậc tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông, cũng sẽ ẩn mất ở thế gian. Cho nên con đâu có thể nào mà không đau buồn!”

Tôn giả A Nan bạch xong những lời ấy, đức Phật dạy:

“Này A Nan, thầy đừng đau buồn nữa! Giáo pháp của Như Lai cần được lưu bố rộng rãi, tồn tại lâu dàithế gian để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trải qua bốn trăm năm, thầy Ca Diếp cùng với thầy và các đệ tử, truyền nối nhau tu hành phạm hạnh để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy không nên đau buồn! Chánh pháp của Như Lai cần phải được lưu bố rộng rãi, tồn tại lâu dàithế gian để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, thầy Ca Diếp cùng với thầy, nên phát tâm làm cho pháp bồ-đề vô thượngNhư Lai đã tích tập từ vô số kiếp được hưng thịnh, không suy mất. Vì sao vậy? Này A Nan! Thầy Ca Diếp là người ít ham muốn, biết đủ, xa lìa dục vọng, chuyên cần tinh tấn, luôn có chánh niệm, không hí luận, an trú trong định tuệ. Này A Nan! Thầy Ca Diếp có khả năng chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi, giống như cha mẹ đối với con cái. Này A Nan! Thầy Ca Diếp thấy biết sâu rộng, thương xót thế gian, vì muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, an lạc cho trời, người, mà phát tâm như thế.”

Bấy giờ tôn giả A Nan bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Tôn giả Ca Diếp phát tâm như thế sẽ đem lại lợi ích an lạc cho bao nhiêu chúng trời, người?”

Đức Phật dạy:

“Thầy Ca Diếp lúc nhập niết-bàn sẽ phát nguyện rằng: [Tôi nguyện, sau khi tôi diệt độ, do thần lực của chính tôi gia trì, khiến cho xác thân tôi và y bát không bị biến hoại. Chờ cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời, chính thân này sẽ diện kiến Ngài, cùng phụ giúp Ngài lập nên pháp hội thứ nhất; rồi đến pháp hội thứ nhì, pháp hội thứ ba, do nguyện lực của tôi gia trì, khiến cho nhiều trăm chúng sinh, nhiều ngàn chúng sinh, nhiều ngàn vạn chúng sinh, vô số chúng sinh chứng quả Thánh. Đức Phật Di Lặc đã thấy thân tôi và y bát không bị biến hoại; chúng Thanh-văn trong cả ba pháp hội cũng đã thấy thân tôi và áo ca-sa không bị biến hoại. Bấy giờ thân tôi sẽ đứng trên hư không, dùng lửa của chính thân mình mà thiêu thân mình. Thiêu xong rồi thì tro cốt biến mất hết.] Này A Nan! Đó là thầy Ca Diếp phát tâm làm lợi ích an lạc cho chúng sinh. Này A Nan! Chính do nguyện lực gia trì mà sau khi thành thục cho chúng sinh rồi thì thầy Ca Diếp nhập niết-bàn. Liền lúc đó, có bốn ngọn núi đá kéo đến, hiệp lại làm một để che phủ xác thân của thầy Ca Diếp. Và như thế, xác thân của thầy Ca Diếp được giữ ở giữa bốn ngọn núi đá kia, không bị biến hoại, cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời. Thân của thầy Ca Diếp tồn tại lâu dài như thế mà không bị biến hoại, và cả tấm áo ca-sa cũng không bị biến hoại, là vì sao vậy? Này A Nan! Vì thầy Ca Diếp là người giữ giới thanh tịnh, là người tu hành phạm hạnh, là người có trí tuệ, cho nên tâm nguyện mới được thành tựu; nếu không giữ giới thanh tịnh, không tu phạm hạnh, không có trí tuệ, thì dù có muốn cũng không thể thành tựu được gì. Này A Nan! Thầy Ca Diếp, trước tiên do nguyện lực mà nhập niết-bàn; nhập niết-bàn rồi thì xác thân tồn tại lâu dài không bị biến hoại, tóc lông máu thịt, các căn, và cả y phục cũng không bị biến hoại, cũng không hôi hám, cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời. Này A Nan! Khi đức Phật Di Lặc ra đời, ở pháp hội thứ nhất, Ngài sẽ dẫn chín mươi sáu ức vị tì-kheo đến chỗ thầy Ca Diếp, chỉ cho đại chúng thấy thân của thầy Ca Diếp, và dạy rằng: [Này các thầy tì-kheo! Thầy Ca Diếp đây là bậc đại Thanh-văn trong thời kì pháp vận của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyên tu hạnh đầu-đà, ít ham muốn, biết đủ, xa lìa dục vọng, chuyên cần tinh tấn, luôn có chánh niệm, không hí luận, an trú trong định tuệ. Thầy Ca Diếp có khả năng chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi, giống như cha mẹ đối với con cái. Này các thầy tì-kheo! Thầy Ca Diếp thấy biết sâu rộng, rốt ráo không còn tâm nghi ngờ, và tùy thuận chúng sinh. Này các thầy tì-kheo! Các thầy hãy xem đó, thầy Ca Diếpthương xót thế gian, muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, an lạc cho trời, người, mà phát tâm như thế.] Này A Nan! Ở pháp hội thứ nhì, đức Phật Di Lặc sẽ dẫn chín mươi bốn ức vị tì-kheo đến chỗ thầy Ca Diếp. Đến pháp hội thứ ba, Ngài sẽ dẫn chín mươi hai ức vị tì-kheo đến chỗ thầy Ca Diếp, chỉ thân của thầy cho đại chúng xem, và dạy rằng: [Này các thầy tì-kheo! Thầy Ca Diếp đây là bậc đại Thanh-văn trong thời kì pháp vận của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyên tu hạnh đầu-đà, thiểu dục, tri túc, vì muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, an lạc cho trời, người, mà phát tâm như thế.] Này A Nan! Lúc bấy giờ, đức Phật Di Lặc đưa cánh tay phải ra, rờ trên đầu thầy Ca Diếp, rồi nhìn khắp các vị tì-kheo, nói rằng: [Này các vị tì-kheo! Tì-kheo Ca Diếp đây đã gìn giữ chánh pháp sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ; còn trong khắp đại chúng ở đây, sẽ không có một vị nào gìn giữ chánh pháp của ta sau khi ta diệt độ, giống như thầy Ca Diếp!] Này A Nan! Ở pháp hội thứ ba của đức Phật Di Lặc, thầy Ca Diếp, do nguyện lực của chính mình gia trì, sẽ ở trên không trung, biểu hiện nhiều thứ thần thông biến hóa, rồi dùng lửa của tự thân mà thiêu hủy thân mình; thân xác cháy xong, tro cốt đều biến mất. Sau khi cho đại chúng chứng kiến các sự việc về thầy Ca Diếp, Đức Phật Di Lặc bèn nói pháp cho đại chúng hiện tiền, khiến cho nhiều trăm ngàn ức người, được chứng quả Thánh. Này A Nan! Thầy Ca Diếp phát tâm làm lợi ích cho nhiều chúng sinh, thầy cũng nên phát tâm làm lợi ích, đem lại an lạc cho nhiều chúng sinh. Như thế, này A Nan! Thầy Ca Diếp cùng với thầy hãy phát tâm giữ gìn chánh pháp tồn tại qua bốn trăm năm, tu hành phạm hạnh, làm lợi ích cho hàng trời, người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12475)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14067)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10823)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10490)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11150)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11963)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13092)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13595)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33607)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11307)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12876)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13016)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11586)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17844)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11381)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11795)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11454)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18930)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12503)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11282)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13109)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15716)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11786)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11659)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12715)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12595)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13915)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12947)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12891)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13256)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12728)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12656)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11697)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11686)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12287)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12346)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19791)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11920)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11959)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16842)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12648)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15016)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16065)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12839)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12189)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11883)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11900)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13117)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16477)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13201)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12445)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11781)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19808)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11122)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11224)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10372)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11057)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10936)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10000)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11711)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant