Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

27 Tháng Chín 201620:20(Xem: 12035)
Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

KỆ CA NGỢI PHÁP GIỚI



   Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển 32, thuộc Luận Tập Bộ toàn, Kinh văn số 1675.

Thánh Long Thọ Bồ Tát tạo, Tây Thiên, nước Điểu Điền, chùa Đế-Thích Cung, Tam Tạng Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Sa môn Thần Thí Hộ dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.

Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Đức quốc dịch Hán- Việt, mùa An cư kiết hạ, Phật lịch 2551, nhằm ngày 09/08/2007 tại thư phòng chùa Viên Giác.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất ngày 22/9/2016



Quy mạng mười phương Phật

Pháp, Báo và Hóa Thân

Nguyện cùng các chúng sinh

Chóng thành Pháp giới tính.


Luân hồi ba đường ác

Lý pháp giới không động,

Xưa nay thường thanh tịnh

Các tướng chẳng thể đổi.


Tịch tĩnh như hư không

Trọn khắp  ở mọi chỗ

Thể đều lìa đây, kia

Không sâu cũng chẳng cạn.


Khi sữa chưa chuyển đổi

Chẳng thấy tô, đề-hồ,

Phiền não chưa hàng phục

Pháp giới do đâu hiển?


Như tô ở trong sữa

Tô vốn diệu quang minh,

Phiền não che pháp giới

Thể thanh tịnh viên mãn.


Như đèn bị ngăn che

Không thể chiếu vật khác,

Vô minh hằng che tâm

Pháp giới không sáng tỏ.


Như đèn lìa chướng ngại

Chiếu được vật khắp nơi,

Khi phá tan phiền não

Chân như thường hiển hiện.


Đầu, giữa và cuối cùng

Hai chướng không thể nhiễm,

Như châu lưu ly sạch

Ánh sáng thường tỏa chiếu.


Ánh sáng bị vật ngăn

Bị chướng chẳng thấy sáng,

Phiền não che pháp giới

Chân như khó hiện.


Thể viên tịch sáng sạch

Luân hồi không thể nhiễm,

Cần cầu đến pháp giới

Luân hồi chẳng thể che.


Như gạo trong vỏ trấu

Thể của gạo chẳng không,

Phiền não che Chân như

Phiền nãoChân như.


Như lột bỏ vỏ kia

Thể gạo tự nhiên hiện,

Nếu lìa vỏ phiền não

Lý pháp giới mới hiển.


Vọng chấpthế gian

Vỏ chuối rốt chẳng thật,

Pháp giới không thế gian

Hư vọng cũng không thấy.


Như người uống Cam-lộ

Nhiệt não trọn đều dứt,

Nếu chứng pháp giới tính

Nóng phiền não đều hết.


Diệt trừ diễm phiền não

Cam-lộ pháp giới hiện

Trong tất cả hữu tình

Cao, thấp đều bình đẳng.


Thể thật quả không sinh

Quả loại chấp không có,

Khi trí huệ sinh ra

Hữu vi không pháp giới.


Pháp giới vốn không nơi

Rốt ráo mới chứng được,

Thanh tịnh hằng sáng sạch

Nhật nguyệt đều sáng sạch.


Pháp giới không cấu nhiễm

Như bụi, đêm rồng mưa

Sánh tợ mặt La-hầu

Quang minh hằng xán lạn.


Ví như lửa tẩy vải

Chỗ lửa lìa được nhiễm,

Trừ bẩn chỉ còn vải

Quang minh chuyển sáng sạch.


Tham ái khiến tâm nhiễm,

Hư vọngluân hồi

Cũng như lửa tẩy vải

Chân không không có vọng.


Ba độc gốc sinh tử

Lửa trí tuệ thiêu được

Thể pháp giới thường có

Sáng trong thường chiếu diệu.


Nhiễm phiền não gọi nhơ

Thường được Thế Tôn nói,

Diệt nhơ, Chân như hiện

Như suối dẫn từ đất.


Nếu trừ sạch phiền não

Sáng sạch lớn khó lường,

Pháp giới vốn vô ngã,

Không nhị hình, nam, nữ.


Thể không, chấp hư vọng

Chỗ nào thêm nghĩ suy?

Pháp giới lìa yêu, ghét

Căn, trần, cảnh vốn không.


Chấp hư vọng làm nhân

Khác nhau sinh từ đây,

Chân không không khổ não

Tham ái – nhân khổ não.


Đắm nhiễm do vọng tưởng

Bèn luân hồi ba cõi,

Hoài thai ở trong bụng

Hài nhi chưa thể thấy


Hai chướng che Chân như

Không thể chứng pháp giới,

Sinh đủ loại nghi ngờ

Kiến, mạn và sân, si


Vọng chấpchân thật,

Chân thật - chấp không có,

Thể sừng thỏ không có

Vọng chấp khiến thành thật.


Pháp giới lìa vọng chấp,

Vọng chấp thực chẳngcó,

Như sắc ắt phá hoại

Vi trần khá biết được.


Pháp giới không phá hoại

Trong ba thời chẳng được,

Có sinh ắt có diệt,

Vinh nhục cũng đều theo.


Pháp giới không sinh diệt

Làm sao nói: Được biết?

Sừng thỏ vốn không có

Nghĩ được trong ba thời?


Chân không không sừng thỏ

Tư lự chẳng thể biết

Chân không gọi Thiện Thệ

Sắc tướng trọn đều mất.


Đáng độ, tùy duyên có

Tu nhân lìa chấp không,

Viên thông như nhật nguyệt

Nước hiện ảnh đều đồng.


Sắc, thanh cùng dứt sạch

Khác nhau có thế nào?

Ba thời khá tìm nghĩ

Khi sinh duyên quyết định.


Nếu ngộ pháp tự thân

Tự thân làm sao có?

Như nước ở chỗ nóng

Chỗ nóng giác ngộ không.


Chỗ lạnh cũng như thế

Viên thông đều như vậy

Phiền não hằng che tâm

Mê hoặc chẳng thể rõ.


Nếu lìa trói phiền não

Giác ngộ thời không có,

Như mắt quán các sắc

Lìa chướng được chiếu diệu.


chân không cũng thế

Chiếu diệu lìa sinh diệt,

Nhĩ thức nghe âm thanh

Lìa vọng và phân biệt.


Tính pháp giới cũng vậy

Vọng phân biệt không có,

Mũi ngửi được các hương

Tính vọng chấp không có.


Sắc tướng cả hai mất

Chân không cũng như thế

Tự tính thiệt căn không,

Vị giới hằng viễn ly.


Thể thức không cũng vậy

Lý pháp giới như thế,

Tự tính thân căn tịnh

Xúc lạnh, nóng không có.


Lý pháp giới cũng thế

Xúc xứ thường viễn ly,

Ý duyên pháp gọi nhất

Tự tính thường viễn ly.


Tính chư pháp vốn không

viên thông như vậy,

Thấy nghe và giác biết

Pháp tương ưng cũng không.


Liễu tuyệt các vọng tưởng

Lý: Thấy nghe cũng không,

Căn- trần, khởi vọng chấp

Thể thanh tịnh vốn không.


Mê chấp, có căn – trần

Lý: Căn trần không có,

Thế gianxuất thế

Tính không vốn chẳng khác.


Ngã, pháp do mê khởi

Chấp khắp, tự luân hồi,

Lý pháp giới thanh tịnh

Tham, sân, si vốn không.


Mê, ngộ từ tâm khởi

Pháp tam độc giả danh,

Mê chấp tự trói buộc

Trí- liễu đạt giả danh.


Bồ-đề chẳng xa gần

Lý: Ba thời không có,

Lồng phiền não mê chấp

Kinh Thế Tôn đã nói.


Trí sinh- hoặc nhiễm diệt

Vọng chấp- vật trói buộc,

Đi lại chấp tối thắng

Thể không còn khá nghĩ


Bồ-đề không vọng chấp

Chứng chính cũng biết không,

Nước, sữa cùng một chỗ

Ngỗng uống sữa không nước.


Sinh không lìa phiền não

Hai chướng cũng không tạp

Vọng chấp ngã chẳng không,

Liễu đạt vốn không có.


Niết-bàn thanh tịnh

Hai ngã cùng không lập

Tam đàn trai tu thí

Trì giới lìa lỗi lầm.


Nhân Nhẫn – quả đoan chính

Nương tinh tấn, dũng cần,

Tĩnh lự khiến tâm định,

Bát-nhã dụng vô ngại


Nguyện kèm lực phương tiện

An trụ thắng Bồ-đề,

Bồ-đề khó vọng chấp

Chân không chẳng sinh diệt.


Liễu đạt bản tính không

Hai tướng cùng không có,

Sữa đường lìa cây mía,

Lìa mía, không có đường.


Giữ gìn hạt lúa mạch

Mầm nhánh ắt được sinh,

Gìn giữ giống Bồ-đ

Bồ-đề từ đây sinh.


Ví như trăng trong ám

Còn chưa thấy ánh sáng,

Phiền não trói hữu tình

Chân như chưa thể thấy.


Trăng non tuy có sáng

Từ từ mà tăng trưởng,

Sơ địa chứng Bồ-đề

Bồ-đề chưa viên mãn;


Mười lăm trăng tròn đầy

Nơi nơi ánh sáng chiếu,

Giải thoát hiển pháp thân

Lý Pháp thân không khuyết.


Ý tương ưng nhiễm ô

Trói buộc cùng sinh diệt,

Giải thoát tất cả chướng

Ngộ ba thời không có.


Đủ a-tăng- kỳ đầu

Tam đàn tu khắp cả

Đoạn trừ chướng phân biệt

Trí Hoan h khó sánh.


Ba nghiệp lầm kiêm phạm

Phòng lỗi nặng và nhẹ

Thi-la giới viên mãn,

Ly- cấu độc nêu danh.


Hai chướng hằng thời nhiễm

Đao tuệ trừ, đều không,

Phát Quang được chiếu diệu

Phá diệt lần không sót;


Lìa xa căn tùy nhiễm

Dần tăng uy Diễm Tuệ

Bồ- đề xưng tối thắng

Thiêu chiếu chuyển sáng chói.


Hai đế gọi Chân, Tục

Tương ưng, nếu mâu thuẫn

Hợp lại khiến không ngại

Nan Thắng sự hằng thời


Mười hai duyên sinh trí

Đường về lý tuần hoàn,

Tối thắng thâm sâu nhất

Bát-nhã hiện ở trước.


Hành thế gian, Nhị thừa

Đạo tu lâu đã tỏ

Đủ tướng Vô công dụng

Sau rốt gọi Viễn Hành.


Dụng trí vô phân biệt

Tùy duyên tự nhiên thành,

Hàng chúng ma thối tán
Bất Động danh rực rỡ.


Thiện Tuệ gọi vô ngại

Mười phương diễn pháp hiếm

Thân trút mưa Cam lộ,

Hiện chỗ nương tối thắng.


Các đức giống như nước,

Thân dụ như hư không,

Thô nặng đều che lấp

Đại Pháp Trí-gọi Mây.


Xét kỹ việc luân hồi

Ai tránh được nghiệp dẫn?

Phải biết không khổ não

Tịnh độ chớ nghĩ: Phiền.


Quy mạng chân Phật tử

Lên vị Mây Trí Tuệ

Tế vi đều đoạn sạch

Vượt khổ, lìa các trần.


Quán đỉnh các quang chiếu

Thân khắp các căn, trần

Đại định Kim Cang tịch

Các khổ chẳng theo thân;


Tòa Đại Bảo Hoa Vương

Thành bởi vô lượng diệu

Khắp phổ biến trang nghiêm

Công đức thật khó nghĩ;


Mười phương đều vô úy

Đủ ba thân, bốn trí,

Sáu thông luôn tự tại

Ứng vật độ cơ duyên;


Chiếu diệu như trăng tròn

Lửa hừng hực cháy luôn

Mười phương đâu chẳng khắp

Xán lạn chuyển rực rỡ.


Vĩnh viễn dứt duyên nhiễm

Nơi chỗ luôn Niết-bàn

Gọi Bồ-đề tối thắng

Hóa vật lợi tình vui.


Dụng trí sâu như biển

Theo cơ hiện Ứng thân

Nước trong trăng ảnh hiện

Khắp chốn độ mê tân.


Giống như báu Pha-chi

Tùy duyên hiện ảnh đồng

Căn tình vật có cảm

Biến khắp sự vô cùng.


Ngạ quỷ luôn đói khát

Chẳng thấy được suối nước,

Chúng sinh không chút tín

Nghiệp xưa tự trói buộc.


Hóa hiện các tướng thân

Ánh sáng đều rực rỡ,

Phật tuy luôn tại thế

Không gặp vì không duyên;


Biết rõ trần sa giới

Căn theo nhiễm chưa lâu,

Hai Không trí thù thắng

Diệu dụng độ ngu mông.


Thanh tịch sạch các nhơ

Thân tự, tha thọ dụng

Thường ở Sắc Cứu Cánh

Lợi ích người năm thừa.


Cứu vớt khổ chúng sinh

Thọ mạng dài vô lượng

Hai nghiêm không cùng tận

Công đức lớn khó lường.


Phật diễn pháp Nhất thừa

Tùy cơ hiểu nông sâu

Hoa sen không nhiễm dơ

Ngọc vốn sạch vết khuyết.


Ngợi ca một phần nhỏ

Nói rộng lý mầu nhiệm

Nguyện đem các công đức

Khắp thí lợi Trời, Người.



KỆ XƯNG TÁN PHÁP GIỚI.



Phật Tử Thanh Phi sửa lại lỗi chính tả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10396)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12358)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11661)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28819)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12059)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13019)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11453)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12385)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17455)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53087)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35498)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12425)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13324)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14391)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13736)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13141)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12544)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11618)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11630)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19592)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12193)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12331)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15042)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15047)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11408)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17204)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14987)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20225)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14630)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13858)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15074)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13005)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22898)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11671)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11510)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12895)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18434)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15788)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant