Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I: Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10238)
Chương I: Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái

SẮC TƯỚNGTHẬT TƯỚNG

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ

CHƯƠNG I 
VẤN ĐỀ NHỊ ĐẾ TRONG TỨ ĐẠI THUYẾT PHÁI
Nhị Đế bao gồm Chân Đế (don dam bden pa - paramarthasatya) và Tục Đế (kun rdzob bden pa - samvriti satya). Những kiến giải liên quan đến vấn đề phân biệt giữa Nhị Đế giữ một vị thế quan trọng trong sự khẳng định nội dung của mỗi một trong bốn tứ đại thuyết phái mà Hoàng Mạo phái của Phật giáo Tây Tạng nhìn nhận như là những phát biểuhệ thống và chân xác nhất của giáo lý Phật đà. Cũng giống như một nhà công chứng đóng dấu vào một văn kiện công nhận giá trị chân thực của nó, mỗi một bốn tứ đại thuyết phái này đều mang đầy đủ những dấu ấn được coi như phản ảnh một cách trung thực giáo lý Phật đà, đó là tứ pháp ấn:

1. Vô thường: Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường.

2. Khổ: Chư hành là khổ.

3. Vô Ngã : Chư pháp đều vô ngã.

4. Niết Bàn: Niết bàn là tịch tỉnh.

Xếp hạng từ cao -tức là mức độ sâu sắc uyên áo nhất- cho đến thấp, bốn đại thuyết phái cùng chia xẻ những quan điểm này, gồm:

Các truyền thống Đại thừa :

1. Trung Quán tông (Madhyamika);

2. Duy Thức học (Cittamatra).

Các truyền thống Tiểu thừa :

1. Kinh Lượng Bộ (Sautrantika);

2. Phân Biệt Thuyết hay Đại Tì Bà Sa (Vaibhasika).

Trung Quán tông cũng được chia ra thành hai bộ pháiĐộc Lập Biện Chứng phái và Quy Mậu Biện Chứng phái và Kinh Lượng Bộ cũng được chia thành hai phái là Kinh Thủ và Luận Lý, v.v... Hoàng Mạo phái cho rằng bất cứ ai cho là mình đi đúng theo giáo lý Phật đà đều có thể được xem như thuộc về một trong bốn đại thuyết phái nói trên.

Tuy nhiên điều này không có nghĩa là nó bao gồm tất cả những người theo đạo Phật, bởi vì có rất nhiều người có niềm tin sâu xa vào Tam Bảo -và dĩ nhiên họ là những Phật tử thuần thành- nhưng không tự xem mình thuộc về một thuyết phái nào. Và một điều cũng nên biết rằng để được coi như là hành giả của một thuyết phái, điều cần thiết là phải thực chứng được lý vô ngã giảng dạy bởi tông phái đó. Một cách cụ thể, chẳng hạn như một người không thể trở thành một hành giả của Trung Quán tông cho đến khi nào họ thực chứng được tánh không theo cách lý giải của Trung Quán.

Thế nên danh từ được diễn dịch như là “thuyết phái” ở đây hàm chứa ý nghĩa thành tựu rốt ráo, và bởi vậy, để được coi là hành giả của một thuyết phái không phải là người chỉ có thiện cảm với một vài quan điểm của thuyết phái đó mà phải là người nhận thức được rằng đó là chân lý đúng đắn và quyết theo đuổi cho đến cùng. Tuy nhiên những kiến giải được xem như là nền tảng và là kiến thức cơ bản của một thuyết phái lại có thể bị xem như là nông cạn hoặc thậm chí là sai lầm đối với cái nhìn của một thuyết phái cao hơn.

Cái ẩn dụ chính đằng sau công cuộc nghiên cứu của Hoàng Mạo phái về các thuyết phái Phật giáo không theo cách nhìn theo lối nhà trường củaTây phương nghĩa là đi theo một trình tự thời gian từ thấp đến cao mà xem đó như là một cái thang mà những bậc thang là những thuyết phái. Mỗi nấc thang cao hơn cho ta một cái nhìn rõ ràng bao quát hơn là những nấc thang dưới thấp, tuy nhiên chỉ khi nào ta đạt đến nấc thang cao nhất - Quy Mậu Biện chứng phái của Trung Quán- ta mới có thể thấy được sự vật hiện hữu như chính nó. Nói một cách khác, dù đứng trên bất cứ nấc thang nào cũng đều cho ta một cái nhìn rõ ràng hơn là đứng trên mặt đất. Những thuyết phái thấp hơn, cũng giống như những bậc thang, giúp cho ta phương tiện để vươn đến những bậc thang cao hơn.

Có thể đẩy cái ẩn dụ này xa hơn một chút: Những nấc thang cao hơn có thể nguy hiểm cho những ai chưa được chuẩn bị để đón nhận. Đối với một số người, ở một thời điểm nào đó, có thể điều tốt nhất cho họ là nên an trúvới một thuyết phái thấp hơn. Tuy vậy cũng không phải là điều cần thiết để mọi người phải tiến từng bước một từ những nấc thang thấp đến cao của thuyết phái. Khi ta đi sâu vào việc học hỏi những thuyết phái, ta bước từ một thuyết phái này đến một thuyết phái khác, quán chiếu về những gì mà mình đã lãnh hội được từ mỗi mức độ khác nhau.

Tuy nhiên, khi đã sẵn sàng để chọn lựa cho mình một thuyết phái và cố gắng triển khai con đường thực chứng tâm linh theo quan điểm của thuyết phái này, một lời khuyên rất cổ điển là bạn nên chọn lựa cái cao nhất có thể được, dĩ nhiên là trong khuôn khổ mà bạn giữ được niềm tin tưởng một cách vững chắc vào nghiệp lực, và nhân quả. Bạn không nên hành trì theo những thuyết phái thấp hơn vì lý do đơn giản là bạn cảm thấy khiêm tốn.

Chúng ta cần phải phát triển và giữ vững niềm tin rằng tất cả những hành động của chúng ta đều tạo nên nghiệp quả, rằng chúng ta có thể tạo nên những thay đổi, rằng có không biết bao nhiêu người đang trầm luân trong bể khổ, v.v... Những giáo lý này ai cũng có thể cảm nhận được là cơ bản đối với Phật giáo hơn là giáo lý về tánh không. Nếu chúng ta thử để mắt nhìn vào đời sống thực tế để nhìn xem người Phật tử thực sự đang hành trì cái gì nhất, chúng ta sẽ thấy rằng đa số đang hành trì theo các pháp ba la mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, và tinh tấn do thúc đẩy bởi một ý nguyện đơn giản là giúp đỡ tha nhân và hoặc là để cải thiện chính nghiệp qủa của mình trong dòng luân hồi

Ý hướng muốn vượt thoát khỏi vòng luân hồi sinh tửnỗ lực thực sự để thực chứng tánh không quả thật rất hiếm hoi. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì con người thường có khuynh hướng thiên về những gì cụ thể hơn là vô hình, trừu tượng, thế nên niềm tin của một người Phật tử bình thường vào con người, nghiệp quả, giới hạnh, từ bi v.v... đều được trộn lẫn với khuynh hướng cụ thể hóa.

Nhà du già sư như thế phải tìm cách thế để loại bỏ những yếu tố cụ thể này mà không làm thương tổn đến niềm tin vào con người, nghiệp quả, v.v... Nếu đưa người ta vào một pháp tu đặc biệt nào đó đồng thờiø cũng có nghĩa là thúc đẩy họ vào niềm tin rằng chẳng có gì là quan trọng, chẳng có gì hiện hữu, chẳng có gì thay đổi, ta có hành động hay không cũng vậy... chắc chắn là họ sẽ bỏ đi ngay để tìm đến một thuyết phái “thấp” hơn. Những nấc thang cao hơn nguy hiểm là vậy, bởi vì nó phủ nhận ngay cả những trạng thái vi tế nhất của thực tế và do đó rất dễ có nguy cơ bị rơi vào chũ nghĩa hư vô, đoạn kiến.

Những “quan điểm” kiến giải khiến cho một thuyết phái này được xem như cao hơn một thuyết phái khác bao gồm rất nhiều vấn đề liên quan đến triết học, tâm lý học, mà vấn đề quan trọng nhất là câu hỏi liên quan đến cái gì tạo nên vô ngã, hay Không tánh. Bởi vậy, ta không nên lầm lẫn giữa tứ đại thuyết phái và bốn tông phái của Phật giáo Tây Tạng: Hoàng Mạo, Lam Thổ, Cổ Mật và Bố Y phái vốn được phân biệt do các nghi lễ và cách thức thiền định khác nhau. Kensur Yeshe Tupden giải thích rằng trong mỗi tông phái của Phật giáo Tây Tạng vẫn có những người theo đuổi các thuyết phái khác nhau, cũng như một số lớn Phật tử không theo một thuyết phái nào cả.

Trong những chương kế tiếp chúng ta sẽ tìm hiểu nội dung của vấn đề Nhị đế được trình bày bởi tứ đại thuyết phái, bắt đầu bằng giáo lý của trường phái Phân Biệt Thuyết (Đại Tỳ Bà Sa) cho đến Trung Quán tông. Tuy nhiên, một điều cũng nên lưu ý rằng, chỉ có thuyết phái cao nhất, Trung Quán tông mới cho ta một cái nhìn sâu sắc nhất về vấn đề Nhị đế. Phái Phân Biệt ThuyếtKinh Lượng Bộ đặt nặng sự quan tâm vào Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo), trong khi đó phái Duy Thức chú trọng đến “tam tính” (viên thành thật tính, y tha khởi tính, và biến kế sở chấp tính).

Do Trung Quán tông đã có những kiến giải sâu sắc và chi tiết liên quan đến Nhị Đế thế nên khi xoáy sâu vào việc tứ đại thuyết phái đã kiến giải như thế nào về vấn đề Nhị đế, ở một mức độ nào đó ta không thể tránh được việc áp đặt cái nhìn của Trung Quán tông lên trên ba thuyết phái thấp hơn. Điều này có nghĩa là chúng ta sẽ tiếp cận những thuyết phái thấp hơn qua góc độ lăng kính của Trung Quán tông, và bằng cách này chúng ta như dựng lên một tấm “phông” phản chiếu để có thể đánh giá một cách tốt hơn về những kiến giải của Trung Quán tông liên quan đến Nhị đế

Thánh giả Long Thọ, nhà triết gia tiên khởi của Trung Quán tông, trong tác phẩm Trung Quán Luận của Ngài đã nêu bật tính cách quan trọng của Nhị Đế:

8. Chư Phật y Nhị đế

Vi chúng sanh thuyết pháp
Nhất dĩ Thế tục đế
Nhị Đệ nhất nghĩa đế

9. Nhược nhân bất năng tri

Phân biệt ư Nhị Đế
Tắc ư thâm Phật pháp
Bất tri chân thật nghĩa
(Trung Luận XXIV. 8, 9)

8. Vì chúng sanh, chư Phật đã y cứ vào Nhị đế (hai chân lý) để thuyết giảng giáo pháp. Nhị Đế đó là Thế tục đếĐệ Nhất nghĩa đế (Chân đế).

9. Nếu người nào đối với Nhị Đế mà không có khả năng tri nhận, phân biệt (để liễu giải toàn vẹn sự hổ tương quan hệ của nó) thì kẻ đó không thể tri nhận được ý nghĩa chân thật của giáo pháp sâu xa vi diệu (thậm thâm) của chư Phật (Phật pháp).(1)

Trong nỗ lực đi đến một nhận thức thấu đáo về sự phân biệt giữa Nhị đế, người ta bắt đầu bằng một câu hỏi: Hai loại Nhị đế là gì? hay một cách khác hơn, Cái gì khi được phân chia ra thì trở thành Nhị Đế? Jamyang Shayba, tác giả một cuốn sách quan trọng về Trung Quán tông đã đưa ra nhận xét rằng, muốn hiểu được nét cá biệt giữa Nhị Đế mà không có một kiến thức về nền tảng của sự phân chia cũng chẳng khác gì đang trèo trên những nhánh cây không rễ.

Đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về nền tảng của sự phân chia này, tuy nhiên đối với truyền thống Hoàng Mạo phái, tất cả đều đồng ý rằng nền tảng của sự phân chia chính là sở tri (jneya), tức là những đối thể của nhận thức. Những luận điểm của Hoàng Mạo phái đưa ra sẽ được bàn đến sau này, được trình bày trên quan điểm của Trung Quán tông, tuy nhiên kết luận của nó -những sở tri là nền tảng của sự phân chia của Nhị đế- có thể truyền tục vào cả ba hệ thống thuyết phái khác.

Một điểm rất quan trọng cũng cần phải lưu ýTục đếChân đế không phải là hai loại quan điểm hay bối cảnh về hiện tượng giới, càng không phải là hai “mức độ khác nhau của thực tại”, cũng như không phải là hai loại chân lý -như mọi người thoạt tưởng. Chúng là những đối thể và do đó có thể được nhận biết. Hữu thểsở tri là tương đương -có nghĩa là bất cứ cái gì thuộc về cái này cũng đồng thời thuộc về cái kia.

Một khi tất cả những gì hiện hữu đều là đối thể của nhận thức, mọi hữu thể phải thuộc về hoặc Tục đế hoặc Chân đế. Nhị đế vì thế không hề bị gò ép vào trong khuôn khổ của những cảnh giới lý tưởng, trừu tượng như chúng ta thường được nghe qua những thành ngữ quen thuộc chẳng hạn như “chân, thiện, mỹ” hay “vén màn chân lý”... Ngược lại chúng ta có thể nắm bắt bất cứ cái gì hiện hữu và nêu lên câu hỏi, Cái này là Tục đế hay Chân đế? Một cái bàn chẳng hạn, đối với các trường phái Trung Quán tông, Duy Thức, và Phân Biệt ThuyếtTục Đế nhưng là Chân đế đối với trường phái Luận Lý của Kinh Lượng Bộ.

Từ sự khẳng định rằng những sở tri là nền tảng của sự phân chia của Nhị đế, các vị đại sư của Hoàng Mạo phái đưa ra quan điểm rằng ta có thể biết, có thể lãnh hội được Nhị đế. Một vài trường phái thường cho rằng có những bí mật quá thâm diệu, những chân lý quá uyên áo mà tâm của ta, cho dù được rèn luyện và thanh lọc thế mấy đi nữa, cũng sẽ không bao giờ có thể nhận thức thấu đáo được. Đối với Hoàng Mạo phái, không hề có chuyện như vậy.

Ngay cả một số vấn đề quan trọng nhất, chẳng hạn như tánh không, được biết là cực kỳ khó khăn để thành tựu, cũng như một số vấn đề khác chẳng hạn như những chi tiết vi tế nhất về mối liên hệ giữa một hành động nào đó với hệ quả luân lý của nó mà chỉ chư Phật mới có thể thấu hiểu được. Tuy nhiên, ngay cả một người trước khi trở thành Bồ tát, điều hiển nhiên là họ phải thành tựu rốt ráo tánh Không, thực chứng được Chân đế thông qua phương tiện thiện xão của thiền quán.

Hơn thế nữa, mỗi chúng sanh hãy nên mang ý nguyện, cũng như có khả năng chuyển hóa tâm thức của mình thành tâm nhất thiết trí của Phật, tức là tâm thức có khả năng hiểu biết trực tiếp và đồng thời những gì đang hiện hữu -tất cả Chân đế lẫn Tục đế. Và Nhị Đế như thế chính là hai loại hình sự vật mà mỗi một người Phật tử chúng ta đều có thể nhận ra và nên khao khát tìm cầu học hỏi.

CHÚ THÍCH:

(1) Madhyamakasastra (Treatise on the Middle Way), P5224, Vol. 95, ch. 24, vs. 8-9.
Có thể đọc thêm một bản dịch mới với những chú giải triết học của một triết gia Tây phương: The Fundamental Wisdom of the Middle Way. Jay Garfield. New York: Oxford, 1995. 

Đoạn trích dẫn ở trên là bản Việt dịch Trung Luận của TT Thích Viên Lý.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31334)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26225)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27523)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27910)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26713)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31232)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22925)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30052)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21574)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20243)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22665)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20752)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30315)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28793)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34726)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44227)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35514)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22543)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20687)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24759)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37922)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19043)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19330)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21823)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20871)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29522)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35131)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28818)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32602)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26223)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43151)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34968)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43931)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37903)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21332)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49014)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39840)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53782)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36827)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49739)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47310)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27698)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27027)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24071)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20848)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34320)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22467)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25123)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25847)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22953)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21762)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23321)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant