Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương IV: Những Trường Phái Đại Thừa

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9849)
Chương IV: Những Trường Phái Đại Thừa

SẮC TƯỚNGTHẬT TƯỚNG

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ

CHƯƠNG IV
NHỮNG TRƯỜNG PHÁI ĐẠI THỪA
Ngài A Đề Sa trong một tác phẩm quan trọng, “Bồ Đề Đạo Đăng”, đã phân loại người đời ra ba hạng có căn cơ khác nhau. Hạng hạ sĩ chỉ biết suy nghĩ đến những phúc lợi tạm thời, những an vui, dục lạc trong cuộc sống luân hồi sinh tử. Họ bám chặt với đời sống thế gian và không muốn từ bỏ nó. Đối với hạng người này,ï phần đông chỉ biết đi tìm kiếm những dục lạc trong cuộc sống thế tục hoặc nếu có theo tôn giáo thì cũng chỉ hời hợt bên ngoài; thản hoặc có một số khác gồm những người biết quan tâm đến chuyện tu hành thì cũng chỉ ở mức độ thấp nhất tức là chỉ tu phước, tu chỉ để mong cầu được tái sanh vào một kiếp sống tốt đẹp hơn trong tương lai.

Hạng hạ sĩ vì thế chưa có khả năng bước chân vào lộ trình giải thoát. Ngược lại, hạng trung sĩ chỉ tìm kiếm giải thoát cho riêng cá nhân mình ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, lòng chăm chăm hướng đến niết bàn. Tuy nhiên họ đang đi trên con đường Tiểu thừa bởi vì chỉ quan tâm đến phúc lợi của riêng mình mà không chia sẻ gánh nặng cứu vớt chúng sanh. Trong khi đó hạng thượng sĩ với tâm nguyện vị tha rộng lớn, họ chỉ luôn nghĩ đến việc mang lại hạnh phúc cho muôn loài. 

Khi họ nhận ra khả năng có thể đạt đến giác ngộ, và biết được rằng những năng lực của một vị Phật có thể giúp đỡ tha nhân một cách hữu hiệu hơn, trong ý nguyện độ sanh cao cả, họ quyết định lựa chọn con đường tinh tấn tu tập cho đến bao giờ có thể đạt thành Phật quả. Lòng quyết tâm này là một hạnh nguyện Bồ tát và những ai mang những hạnh nguyện này vào đời, đang bước đi trên con đường của Đại thừa.

Như vậy sự khác nhau giữa Tiểu thừa / Đại thừa là sự khác nhau giữa hai lộ trình tu chứng. Đường tu của Tiểu thừa được thúc đẩy bởi ý nguyện vượt thoát vòng luân hồi sinh tửđạt đến đạo quả an tịnh giải thoát. Con đường của Đại thừa được thúc đẩy bởi tâm từ bi rộng lớn thương xót toàn thể chúng sanh nhằm đạt đến quả vị viên mãn, cực lạc, nhất thiết trí của một vị Phật. Tuy nhiên một điểm khác cũng cần được lưu ý là ngay từ phần đầu của cuốn sách này ta cũng đã từng đề cập đến sự khác nhau giữa hai thuyết phái Tiểu thừaĐại thừa. Thế nên chúng ta không nên lẫn lộn giữa hai sự khác biệt này. Một cách ngắn gọn, lộ trình tu chứng của Tiểu thừaĐại thừa được phân biệt trên căn bản động cơ và ý nguyện tu tập; trong khi đó hai thuyết phái Tiểu thừaĐại thừa không phải khác nhau do động cơ thúc đẩy mà là trên quan điểm về vô ngã, hay không tánh.

 Không giống như những thuyết phái Tiểu thừa chỉ giảng dạy về vô ngã của con người, thuyết phái Đại thừa giảng dạy rằng bản tánh rốt ráo của thực tại, thể vi tế và quan trọng nhất của vô ngãvô ngã, hay tánh Không, và đó là bản tánh rốt ráo của mọi hiện tượng giới. Họ khẳng định rằng Bồ tát do hạnh nguyện vị tha cao cả thúc đẩy, đã thiền quán sâu xa trên tánh Không của toàn thể pháp giới, và như thế đã chuẩn bị để bước vào tình trạng nhất thiết trí của Phật quả.

Một vài thuyết phái Đại thừa cho rằng những hành giả của phái Tiểu thừa đã không hề nhận chân được tánh Không của pháp giới và do đó không thể nào vượt qua khỏi những chướng ngại nhằm đạt đến nhất thiết trí. Tuy nhiên, thuyết phái cao nhất, Quy Mậu Biện Chứng phái của Trung Quán Tông, nhìn nhận rằng các hành giả của Tiểu thừa thực chứng được tánh Không, tuy nhiên lộ trình tu chứng này không thể đưa họ đến tình trạng nhất thiết trí bởi vì trí tuệ của họ không được trang bị bởi tấm lòng vị tha cao cả cũng như đã không được thúc đẩy bởi những hạnh nguyện ba la mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v...

NHỊ ĐẾ NHƯ LÀ MỘT NHẤT THỂ

Những thuyết phái Đại thừa đưa ra kết luận rằng cái tánh Không vi tế và sâu sắc thực chứng được trên con đường Bồ tát đạo là một Chân đế. Chân đế này là một hiện tượng giới khiển trừ, và hoàn toàn vô ngã (tức là không xuất hiện như một loại hữu thể nào đó). Tuy nhiên những trường phái Đại thừa đã bất đồng quan điểm về loại hữu thểtánh Không phủ định.

Cụ thể như trường phái Duy Thức cho rằng tánh Không là không có sự khác nhau giữa đối thể và chủ thể nhận thức (tâm) đang nắm bắt nó, của một thực thể; trong khi đó Quy Mậu Biện Chứng phái của Trung Quán Tông quan niệm rằng tánh Không là không có hiện hữu tự thân. Tuy nhiên cho dù định nghĩa tánh Không như thế nào đi nữa, các thuyết phái Đại thừa đều đồng ý rằng cái tánh Không rất vi tế này trước tiên là một Chân đế, và là một phẩm tánh hiện hữu trong toàn thể mọi pháp giới. Điều này có nghĩa là, bất cứ cái gì hiện hữu -kể cả tánh Không- đều trống rỗng về bất cứ loại hữu thể nào mà tánh Không phủ định.

Những tục đế bao gồm mọi pháp giới ngoại trừ tánh Không, như cái bàn, cái ghế, v.v... Tất cả những hiện tượng giới này đều rỗng không. Chúng tự nó không phải là những tánh Không, tuy nhiên chúng rỗng không bởi vì chúng thiếu một cách thế hiện hữu nào đó. Khi Tục đế mang phẩm tính rỗng không cũng như khi tánh Không là một Chân đế, ta đi đến một kết luận rằng Chân đếTục đế là những hiện tượng giới khác nhau, nhưng hổ tương khiển trừ, và bao dung lẫn nhau như là một thực thể đơn thuần bất khả phân.

Kinh Giải Thâm Mật (Unravelling the Thought) đã so sánh mối liên hệ giữa Nhị đế với mối liên hệ giữa vỏ sò trắng và tánh trắng của nó, tiêu và tánh cay của nó, bông gòn và tánh xốp của nó và những cặp tương tự. Trong mối liên hệ giữa vỏ sò trắng và tánh trắng của nó, tánh trắng không phải là vỏ sò, cũng như vỏ sò không phải là tánh trắng; thế nhưng cái vỏ sò trắng là luôn luôn trắng (1). Tương tự như thế, Hoàng Mạo phái biện giải rằng không hề có chuyện nghịch lý khi Nhị Đế có thể hổ tương giao tiếp toàn diện ở trong cùng một cá thể đơn thuần. Cũng giống như tánh trắng và cái vỏ sò trắng, chúng là đặc tánh và đặc tánh sở đắc. Tánh Không là phẩm tánh cao nhất, là bản tánh rốt ráo của toàn thể pháp giới.

CHÚ THÍCH

(1) Kinh Giải Thâm Mật - Sutra Unravelling the Thought (Samdhinirmocana-sutra). P774. Vol. 29. Bản dịch của John Powers (Wisdom of Buddha). Dharma Publishing, 1995.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49771)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34651)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33466)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43946)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57105)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47585)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39431)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52967)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36621)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32254)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40500)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43508)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31477)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46729)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36223)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28720)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29261)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31915)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28851)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33392)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29162)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61003)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39802)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26704)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29694)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37407)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40109)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42690)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37294)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28310)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28908)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26413)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27182)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26205)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34697)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27830)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30493)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33308)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28576)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30091)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25496)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21862)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51337)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26744)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28640)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27726)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24368)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27480)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31968)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30209)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27730)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35478)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27472)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30030)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31797)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23043)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24200)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23048)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant