Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16430)
98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRUNG BỘ
Majjhima Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

98. Kinh Vàsettha
(Vàsettha sutta)

Như vầy tôi nghe. 

Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala. 

Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Thế nào là một vị Bà-la-môn?"

Thanh niên Bharadvaja nói như sau: 

-- Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Vasettha nói như sau: 

-- Nếu ai có giới hạnhthành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha, và thanh niên Bà-la-môn Vasettha không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja: 

-- Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala, tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn". Này Tôn giả Bharadvaja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì

-- Thưa vâng. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn

Chúng con cả hai người, 
Ðược tôn xưng, tự nhận, 

Là những bậc thông thái

Cả ba tập Vệ-đà. 

Con là đệ tử Ngài, 
Pokkharasati, 

Còn vị thanh niên này, 

Ðệ tử Tarukkha. 

Ba Vệ-đà nói gì, 
Chúng con đều thông đạt

Văn cúvăn phạm

Chúng con đều thấu hiểu, 

Thuyết giảnggiải thích

Thật giống bậc Ðạo sư. 

Tôn giả Gotama, 
Giữa hai người chúng con

Có sự tranh luận này, 

Về huyết thống thọ sanh. 

Bharadvaja nói: 
"Chính do sự thọ sanh".

Con nói: "Do hành động, 

Mới thành Bà-la-môn".

Mong bậc có Pháp nhãn
Hiểu cho là như vậy.

Cả hai người chúng con, 

Không thể thuyết phục nhau. 

Chúng con đến hỏi Ngài, 

Bậc Chánh Giác tôn xưng. 

Như trăng được tròn đầy, 
Quần chúng đến chấp tay,

Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng

Cũng vậy, ở trong đời

Quần chúng đến đảnh lễ

Gotama Tôn giả

Chúng con đến hỏi Ngài, 
Bậc Pháp nhãn thế gian

Bà-la-môn do sanh, 

Hay chính do hành động? 

Chúng con không được biết, 

Hãy nói chúng con biết. 

Ðức Thế Tôn bèn nói:
Này Ông Vasettha, 
Ta trả lời cho Ông, 

Thuận thứnhư thật

Sự phân loại do sanh, 

Của các loại hữu tình

Chính do sự sanh đẻ, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem cỏ và cây, 
Dầu chúng không nhận thức

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại côn trùng, 
Bướm đêm, các loại kiến, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại bốn chân, 
Loại nhỏ và loại lớn, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loài bò sát, 
Loại rắn, loại lưng dài, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước, 

Chúng có tướng thọ sanh,

Da sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại chim, 
Loại có cánh trên trời

Chúng có tướng thọ sanh,

Do sanh, có dị loại. 

Tùy theo sự thọ sanh, 
Chúng có tướng tùy sanh. 

Trong thế giới loài Người

Tướng sanh không có nhiều.

Không ở đầu mái tóc, 
Không ở tai, ở mắt,

Không ở miệng, ở mũi, 

Không ở môi, ở mày, 

Không ở cổ, ở nách, 

Không ở bụng, ở lưng, 

Không ở ngực, ở vú, 

Không âm hộ, hành dâm. 

Không ở tay, ở chân, 
Không ở ngón, ở móng, 

Không ở cổ chân, vế, 

Không ở sắc, ở tiếng. 

Không tướng, do tùy sanh, 
Tùy sanh, loại sai khác.

Trên tự thân con người

Không có gì đặc biệt

Chỉ tùy theo danh xưng, 

Loài Người được kêu gọi.

Ðối người tự sinh sống. 
Chăn bò, lo ruộng đất, 

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nông phu, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống theo nghề nghiệp, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là công thợ, 

Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề buôn bán, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là thương nhân

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống hầu hạ người, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nô bộc

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống lấy của người,
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là kẻ trộm

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề cung tên, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nhà binh, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề tế tự, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là tế quan

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống giữa loài Người
Thọ hưởng làng, quốc độ

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là vua chúa, 

Không phải Bà-la-môn. 

Và Ta không có gọi, 
Kẻ ấy Bà-la-môn. 

Chỉ vì do thọ sanh, 

Dầu vị ấy cao sang, 

Dầu vị ấy giàu có

Nhưng còn ham thế lợi. 

Không tham lam thế lợi, 
Không chấp thủ sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Vị đoạn tận kiết sử
Không ai không sợ hãi

Siêu việt mọi chấp trước

Thoát ly các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Cắt dây thừng, dây ách, 
Dây cương, cùng dây trói, 

Quăng đi cây chắn ngang, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Bậc sáng suốt, giác ngộ

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không lỗi, chịu đựng
Nhiếc mắng cùng đánh trói, 

Trang bị với nhẫn lực

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không phẫn nộ, giữ luật, 
giới hạnh không kiêu, 

Nhiếp phục, thân tối hậu

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Như nước trên lá sen
Hột cải trên đỉnh nhọn, 

Không tham luyến dục vọng

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận, 

Gánh nặng được đặt xuống, 

Xa lìa các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo, 

Ðích tối thượng đạt được

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không còn liên hệ
Cả tại gia, xuất gia

Không nhà trú, thiểu dục

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Bỏ gậy đối chúng sanh
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh, 

Không giết, không hại ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Giữa kẻ thù, không thù, 
Giữa hung bạo, an tịnh

Giữa chấp thủ, không chấp

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dối, tham, sân, mạn, phú, 
Ai bỏ rơi được chúng, 

Như hột cải rơi khỏi. 

Ðầu nhọn của mũi kim, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai dạy thật nhỏ nhẹ
Nói lên lời chơn thực, 

Không xúc chạm một ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dài ngắn hay lớn nhỏ, 
Thanh tịnh hay bất tịnh

Ở đời vật dài ngắn, 

Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh

Không lấy vật không cho, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Với ai không tham cầu, 
Ðời này và đời sau

Từ bỏ mọi tham cầu, 

Ðoạn rời mọi hệ phược,

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp tàng, 
Với trí đoạn nghi hoặc

Ðạt nhập đáy bất tử

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời ai vượt khỏi, 
Mọi buộc ràng thiện ác

Không sầu, không bụi uế, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không uế, thanh tịnh
Không gợn, sáng như trăng, 

Hỷ, hữu được đoạn trừ, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai vượt qua hiểm lộ, 
Ác lộ, luân hồi, si, 

Vượt khỏi, đến bờ kia, 

Thiền tư, không dao động

Ðoạn trừ mọi nghi hoặc

An tịnh, không chấp trước, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ dục vọng
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ dục và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chanh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ tham ác, 
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ ác và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai từ bỏ nhân ách, 
Vượt qua cả thiên ách, 

Ðoạn trừ mọi ách nạn, 

Thoát ly mọi hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Từ bỏ lạc, bất lạc
Thanh lương, không y trú, 

Chiến thắng mọi thế giới

Bậc anh hùng dũng mãnh

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết thật hoàn toàn
Sự sanh diệt chúng sanh

Không tham trước, Thiện Thệ

Giác ngộ, đạt chánh giác

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không biết chỗ sở thủ
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà, 

Lậu hoặc được đoạn trừ, 

Bậc �ng Cúng, La-Hán, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp trước
Ðời trước, sau, đời này, 

Không chấp, không sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ngưu vương, bậc Tối thắng
Anh hùng, bậc Ðại sĩ, 

Bậc Chinh phục, Bất động

Tắm sạch, bậc Giác Ngộ

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết được đời trước, 
Thấy được thiện, ác thú

Ðạt được sanh diệt đoạn, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ðiều thế giới cho gọi,
Là "tên" và "gia tộc", 

Chỉ tục danh, thông danh, 

Danh từ khởi nhiều chỗ. 

Ðã lâu đời chấp trước
Tà kiến của kẻ ngu,

Kẻ ngu tự tuyên bố

Bà-la-môn do sanh. 

Không phải do sanh đẻ, 
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Không phải do sanh đẻ, 

Gọi phi Bà-la-môn. 

Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Chính do sự hành động

Gọi phi Bà-la-môn. 

Hành động làm nông phu, 
Hành động làm công thợ, 

Hành động làm lái buôn, 

Hành động làm nô bộc

Hành động làm ăn trộm
Hành động làm nhà binh. 

Hành động làm tế quan

Hành động làm vua chúa. 

Kẻ trí thấy hành động, 
Như thật là như vậy. 

Thấy rõ lý duyên khởi

Biết rõ nghiệp dị thục.

Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi

Nghiệp trói buộc chúng sanh

Như trục xe quay bánh. 

Do khổ hạnh, Phạm hạnh
Tiết chếchế ngự

Tác thành Bà-la-môn. 

Bà-la-môn như vậy, 

Mới thật là tối thượng

Ba Vệ-đà thành tựu
An tịnh, tái sanh đoạn, 

Vesettha nên biết, 

Kẻ ấy được Phạm thiên

Ðược Thiên chủ Sakka, 

Biết đến thật tường tận. 

Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Phápquy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49672)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34599)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33419)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43876)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56987)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47510)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39384)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38433)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52886)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36569)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32206)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40399)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43434)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31423)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46678)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36135)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28665)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29185)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31845)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28769)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33320)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29091)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60955)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39695)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26616)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29634)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37312)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40045)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26811)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42607)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37230)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28260)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28872)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26361)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27132)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26161)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34563)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27777)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30439)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33223)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28524)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30035)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25460)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21810)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51244)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26681)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28580)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27673)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24328)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27429)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31885)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30154)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27657)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35388)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27400)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29976)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31716)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22981)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24143)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22988)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant