Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16431)
98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRUNG BỘ
Majjhima Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

98. Kinh Vàsettha
(Vàsettha sutta)

Như vầy tôi nghe. 

Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala. 

Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Thế nào là một vị Bà-la-môn?"

Thanh niên Bharadvaja nói như sau: 

-- Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Vasettha nói như sau: 

-- Nếu ai có giới hạnhthành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha, và thanh niên Bà-la-môn Vasettha không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja: 

-- Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala, tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn". Này Tôn giả Bharadvaja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì

-- Thưa vâng. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn

Chúng con cả hai người, 
Ðược tôn xưng, tự nhận, 

Là những bậc thông thái

Cả ba tập Vệ-đà. 

Con là đệ tử Ngài, 
Pokkharasati, 

Còn vị thanh niên này, 

Ðệ tử Tarukkha. 

Ba Vệ-đà nói gì, 
Chúng con đều thông đạt

Văn cúvăn phạm

Chúng con đều thấu hiểu, 

Thuyết giảnggiải thích

Thật giống bậc Ðạo sư. 

Tôn giả Gotama, 
Giữa hai người chúng con

Có sự tranh luận này, 

Về huyết thống thọ sanh. 

Bharadvaja nói: 
"Chính do sự thọ sanh".

Con nói: "Do hành động, 

Mới thành Bà-la-môn".

Mong bậc có Pháp nhãn
Hiểu cho là như vậy.

Cả hai người chúng con, 

Không thể thuyết phục nhau. 

Chúng con đến hỏi Ngài, 

Bậc Chánh Giác tôn xưng. 

Như trăng được tròn đầy, 
Quần chúng đến chấp tay,

Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng

Cũng vậy, ở trong đời

Quần chúng đến đảnh lễ

Gotama Tôn giả

Chúng con đến hỏi Ngài, 
Bậc Pháp nhãn thế gian

Bà-la-môn do sanh, 

Hay chính do hành động? 

Chúng con không được biết, 

Hãy nói chúng con biết. 

Ðức Thế Tôn bèn nói:
Này Ông Vasettha, 
Ta trả lời cho Ông, 

Thuận thứnhư thật

Sự phân loại do sanh, 

Của các loại hữu tình

Chính do sự sanh đẻ, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem cỏ và cây, 
Dầu chúng không nhận thức

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại côn trùng, 
Bướm đêm, các loại kiến, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại bốn chân, 
Loại nhỏ và loại lớn, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loài bò sát, 
Loại rắn, loại lưng dài, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước, 

Chúng có tướng thọ sanh,

Da sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại chim, 
Loại có cánh trên trời

Chúng có tướng thọ sanh,

Do sanh, có dị loại. 

Tùy theo sự thọ sanh, 
Chúng có tướng tùy sanh. 

Trong thế giới loài Người

Tướng sanh không có nhiều.

Không ở đầu mái tóc, 
Không ở tai, ở mắt,

Không ở miệng, ở mũi, 

Không ở môi, ở mày, 

Không ở cổ, ở nách, 

Không ở bụng, ở lưng, 

Không ở ngực, ở vú, 

Không âm hộ, hành dâm. 

Không ở tay, ở chân, 
Không ở ngón, ở móng, 

Không ở cổ chân, vế, 

Không ở sắc, ở tiếng. 

Không tướng, do tùy sanh, 
Tùy sanh, loại sai khác.

Trên tự thân con người

Không có gì đặc biệt

Chỉ tùy theo danh xưng, 

Loài Người được kêu gọi.

Ðối người tự sinh sống. 
Chăn bò, lo ruộng đất, 

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nông phu, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống theo nghề nghiệp, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là công thợ, 

Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề buôn bán, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là thương nhân

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống hầu hạ người, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nô bộc

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống lấy của người,
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là kẻ trộm

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề cung tên, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nhà binh, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề tế tự, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là tế quan

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống giữa loài Người
Thọ hưởng làng, quốc độ

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là vua chúa, 

Không phải Bà-la-môn. 

Và Ta không có gọi, 
Kẻ ấy Bà-la-môn. 

Chỉ vì do thọ sanh, 

Dầu vị ấy cao sang, 

Dầu vị ấy giàu có

Nhưng còn ham thế lợi. 

Không tham lam thế lợi, 
Không chấp thủ sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Vị đoạn tận kiết sử
Không ai không sợ hãi

Siêu việt mọi chấp trước

Thoát ly các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Cắt dây thừng, dây ách, 
Dây cương, cùng dây trói, 

Quăng đi cây chắn ngang, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Bậc sáng suốt, giác ngộ

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không lỗi, chịu đựng
Nhiếc mắng cùng đánh trói, 

Trang bị với nhẫn lực

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không phẫn nộ, giữ luật, 
giới hạnh không kiêu, 

Nhiếp phục, thân tối hậu

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Như nước trên lá sen
Hột cải trên đỉnh nhọn, 

Không tham luyến dục vọng

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận, 

Gánh nặng được đặt xuống, 

Xa lìa các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo, 

Ðích tối thượng đạt được

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không còn liên hệ
Cả tại gia, xuất gia

Không nhà trú, thiểu dục

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Bỏ gậy đối chúng sanh
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh, 

Không giết, không hại ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Giữa kẻ thù, không thù, 
Giữa hung bạo, an tịnh

Giữa chấp thủ, không chấp

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dối, tham, sân, mạn, phú, 
Ai bỏ rơi được chúng, 

Như hột cải rơi khỏi. 

Ðầu nhọn của mũi kim, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai dạy thật nhỏ nhẹ
Nói lên lời chơn thực, 

Không xúc chạm một ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dài ngắn hay lớn nhỏ, 
Thanh tịnh hay bất tịnh

Ở đời vật dài ngắn, 

Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh

Không lấy vật không cho, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Với ai không tham cầu, 
Ðời này và đời sau

Từ bỏ mọi tham cầu, 

Ðoạn rời mọi hệ phược,

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp tàng, 
Với trí đoạn nghi hoặc

Ðạt nhập đáy bất tử

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời ai vượt khỏi, 
Mọi buộc ràng thiện ác

Không sầu, không bụi uế, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không uế, thanh tịnh
Không gợn, sáng như trăng, 

Hỷ, hữu được đoạn trừ, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai vượt qua hiểm lộ, 
Ác lộ, luân hồi, si, 

Vượt khỏi, đến bờ kia, 

Thiền tư, không dao động

Ðoạn trừ mọi nghi hoặc

An tịnh, không chấp trước, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ dục vọng
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ dục và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chanh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ tham ác, 
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ ác và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai từ bỏ nhân ách, 
Vượt qua cả thiên ách, 

Ðoạn trừ mọi ách nạn, 

Thoát ly mọi hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Từ bỏ lạc, bất lạc
Thanh lương, không y trú, 

Chiến thắng mọi thế giới

Bậc anh hùng dũng mãnh

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết thật hoàn toàn
Sự sanh diệt chúng sanh

Không tham trước, Thiện Thệ

Giác ngộ, đạt chánh giác

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không biết chỗ sở thủ
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà, 

Lậu hoặc được đoạn trừ, 

Bậc �ng Cúng, La-Hán, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp trước
Ðời trước, sau, đời này, 

Không chấp, không sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ngưu vương, bậc Tối thắng
Anh hùng, bậc Ðại sĩ, 

Bậc Chinh phục, Bất động

Tắm sạch, bậc Giác Ngộ

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết được đời trước, 
Thấy được thiện, ác thú

Ðạt được sanh diệt đoạn, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ðiều thế giới cho gọi,
Là "tên" và "gia tộc", 

Chỉ tục danh, thông danh, 

Danh từ khởi nhiều chỗ. 

Ðã lâu đời chấp trước
Tà kiến của kẻ ngu,

Kẻ ngu tự tuyên bố

Bà-la-môn do sanh. 

Không phải do sanh đẻ, 
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Không phải do sanh đẻ, 

Gọi phi Bà-la-môn. 

Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Chính do sự hành động

Gọi phi Bà-la-môn. 

Hành động làm nông phu, 
Hành động làm công thợ, 

Hành động làm lái buôn, 

Hành động làm nô bộc

Hành động làm ăn trộm
Hành động làm nhà binh. 

Hành động làm tế quan

Hành động làm vua chúa. 

Kẻ trí thấy hành động, 
Như thật là như vậy. 

Thấy rõ lý duyên khởi

Biết rõ nghiệp dị thục.

Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi

Nghiệp trói buộc chúng sanh

Như trục xe quay bánh. 

Do khổ hạnh, Phạm hạnh
Tiết chếchế ngự

Tác thành Bà-la-môn. 

Bà-la-môn như vậy, 

Mới thật là tối thượng

Ba Vệ-đà thành tựu
An tịnh, tái sanh đoạn, 

Vesettha nên biết, 

Kẻ ấy được Phạm thiên

Ðược Thiên chủ Sakka, 

Biết đến thật tường tận. 

Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Phápquy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19677)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23940)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41180)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19661)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23958)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21735)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27478)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26524)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29289)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33153)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20171)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25734)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20885)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31262)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38518)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21402)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44214)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29791)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42142)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22114)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45700)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32082)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23936)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24354)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29223)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33878)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27654)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21036)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28827)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21538)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28003)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22047)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19443)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19807)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19211)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29130)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20594)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28259)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23623)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33144)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31816)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39589)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21529)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19357)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26334)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24792)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21729)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22355)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29113)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22539)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20453)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23476)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21224)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35261)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24535)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant