Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VIII: Mười Loại Ma Sự

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10543)
Chương VIII: Mười Loại Ma Sự

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

CHƯƠNG VIII
MƯỜI LOẠI MA LÀM LOẠN CHÁNH ĐỊNH

Sư nói: Ngộ đạo tu thiền chẳng phải là việc nhỏ. Những loại ma trong, ma ngoài làm não loạn chánh định, một chút không chủ tể, liền tham trước cảnh ái, do cảnh kích động mà rơi vào lưới ma. Vốn là nhơn lành mà trở lại phải chuốc quả ác. Kẻ sơ học đời sau hãy cẩn thậnđề phòng vậy.

Tôi xin nêu ra mười điều đã biện biệt về nghĩa ma. Tự soi tự xét về thiên matâm ma. Dùng huệ quán chiếu tiêu diệt ma nghiệp. Tâm cấu nếu tịnh các chướng tự nhiên dứt, sợ gì thiên ma nào dám loạn chánh? Nay đem mười loại ma và thuật rõ ràng ở sau: một là ma túc oan, hai là ma ngoại hoặc, ba là ma phiền não, bốn là ma sở tri, năm là ma tà kiến, sáu là ma vọng tưởng, bảy là ma khẩu nghiệp, tám là ma bịnh khổ, chín là ma hôn trầm, mười là thiên ma. Mười loại ma chướng nầy hay làm nhiễu loạn người tu hành chơn chánh. Người ngộ đạo nên thận trọng đó.

HỎI: Thế nào là ma túc oan?

ĐÁP: Ma túc oan gọi là nghiệp chướng. Từ những kiếp lâu xa cho đến đời nầy, sanh ra trong kiếp phàm phu, bất trung bất hiếu, bất nhơn bất nghĩa. Sát sanh trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ, tham lam, giận dữsi ái. Kết nhiều oan gia, ngày nay gặp gỡ, muốn học đạo lớn bị chúng xâm nhiễu chẳng an, hay làm chướng việc thánh, chẳng được thành tựu. Phải sanh tâm quý chí thành sám hối, tha thiết cầu tam bảo buông sức thần gia hộ. Tất cả những nghiệp từ trước tự tiêu tự diệt, tất cả oan gia tự lui hay tan mất, mau được vô lậu, chóng làm lợi khắp chúng sanh, mau được vô lậu, chóng chứng bồ đề. Người tham thiền phải tự sám hối đó.

HỎI: Thế nào là ma ngoại hoặc?

ĐÁP: Ma ngoại hoặc (làm ngoại hoậc bên ngoài), gọi là nhơn chướng. Kẻ tiểu nhơn không có căn lành, sang hèn chẳng đồng, làm não loạn định tâm chẳng được an ổn. Việc nầy không riêng một cớ nào, tất cả đều do thiếu quyền biến, hoặc kém lễ nghi, hoặc do tự cao, hoặc tự ngã mạn, hoặc nói thẳng, hoặc hạnh thô, hoặc nương thế lực, hoặc khoe tài, hoặc nói ác, hoặc khen mình,hoặc chê người, hoặc thiếu vẻ ôn hoà, hoặc không cung kính, hoặc độ lượng không rộng rãi, hoặc thiếu nhẫn nại. Cho nên chuốc cái chẳng tin mà hoặc loạn sự tu hành, sanh tâm động niệm, che lấp cái bản minh. Kẻ sĩ một đạo cần yếu phải thấp xuống mà lui về nuôi đức, mới khỏi được nhơn chướng. Kẻ hậu học đời sau phải khoan tâm và nhẫn nại đó.

HỎI: Thế nào gọi là ma phiền não?

ĐÁP: Ma phiền nãosự chướng. Sự chướng nếu chẳng trừ hay làm lộn xộn việc chánh tu. Thế nào là phiền ? Thế nào là não ?

Phiền thì đuổi theo ngoại cảnh, não thì sanh ở nội tâm. Người tu thiền nhứt định phải đoạn phiền não. Phiền não chẳng trừ sạch tánh định khó hiện. Thấy người nữ mà sanh tâm là dâm tâm phiền não. Thấy sự giết hại mà sanh tâm là ác tâm phiền não. Thấy tài lợi mà sanh tâm là đạo tâm (tâm trộm) phiền não. Thấy vật mà sanh tâm là tham tâm phiền não. Thấy người sanh khinh thường là ngã tướng phiền não. Thấy kẻ thấp sanh kiêu ngạo là tự đại phiền não. Thấy nghịch cảnh sanh sân là khuể tâm phiền não. Thấy thuận cảnh sanh vui là tùy hỷ phiền não. Thấy kẻ oán sanh tâm ghét là hận tâm phiền não. Thấy người thân sanh thương là tư tâm phiền não. Tất cả những cái thấy bên ngoài mà bên trong sanh thủ xả đều là phiền não, không thể nào mà nói ra cho hết được. Kẻ tham thiền nhất định phải trừ sự chướng. Sự chướng nếu chẳng không (rỗng) làm não loạn chánh định. Người học đời sau, tại sao chẳng đoạn nó ?

HỎI: Thế nào gọi là ma sở trị?

ĐÁP: Ma sở trị gọi là lý chướng, lý chướng nếu chẳng trừ hay làm loạn chánh định. Sở tri là thế nào mà lỗi như thế? Biết (tri) ta được ngộ, biết ta thông thiền, biết ta rõ giáo, biết ta hội lý, biết ta học nhiều, biết ta hiểu nhiều, biết ta trì giới nghiêm túc, biết ta được định, biết ta phát huệ, biết ta được thần thông, biết ta được lẽ mầu, biết ta chứng đạo, biết ta thành Phật, muôn ngàn điều biết (Sở tri) gọi đó là lý chướng. Lý chướng nếu chẳng trừ pháp chấp chẳng quên. Pháp chấp chẳng quên thì chơn tâm chẳng hiện. Người tu thiền định nhứt định phải dứt trừ lý chướng.

HỎI: Thế nào là ma tà kiến?

ĐÁP: Ma tà kiếnchấp chướng. Chấp chướng chẳng trừ ắt rơi vào định tà. Tà kiến như thế nào mà loạn chánh định như vậy? Chấp tánh chẳng hoại, gọi sự chấp ấy là hữu kiến (thấy có). Chấp tánh vốn không (rỗng) gọi sự chấp ấy là vô kiến (chấp không). Chấp vốn không chết gọi sự chấp ấy là thường kiến. Chấp theo khí mà diệt gọi sự chấp ấy là đoạn kiến. Chấp từ không sanh ra có là tự nhiên kiến. Chấp từ khí (hơi) hóa ra hình là tà nhơn kiến. Tự như chẳng có chẳng không, tức có tức không. Tất cả những tà chấp, tà kiến nhơn duyên tự nhiên… đều chẳng lìa không hữu, đoạn thường hai đầu. Tự chướng bốn lý đến rơi vào đường tẻ. Người tham thiền phải biết mà ngộ lẽ nầy.

HỎI: Thế nào là ma vọng tưởng?

ĐÁP: Ma vọng tưởng gọi là Tự chướng. Tự chướng chẳng không (rỗng), thì sanh diệt chẳng dừng, điên đảo tán loạn, che chướng bản tâm. Người tham thiền cần phải làm cho rỗng không cái chướng nầy. Nay nêu ra một hai điều để làm sáng tỏ cái vọng chướng, như: vọng tưởng ngộ đạo, vọng tưởng tu chứng, vọng tưởng đắc định, vọng tưởng phát huệ, vọng tưởng nhiều hiểu biết, vọng tưởng hay làm văn, vọng tưởng về danh đạt, vọng tưởng về sự cúng dường nhiều, vọng tưởng làm thầy, vọng tưởng chư tăng qui hướng, vọng tưởng tiếp nối tổ vị, vọng tưởng trụ một ngôi chùa, vọng tưởng hoằng đạo, vọng tưởng về tác phẩm lưu truyền, vọng tưởng về kẻ nối dòng, vọng tưởng về sự nhập tháp, vọng tưởng thần thông, vọng tưởng huyền diệu, vọng tưởng kỳ đặc, vọng tưởng quái lạ, vọng tưởng trường sanh, vọng tưởng hoàn đồng, vọng tưởng bay lên, vọng tưởng thành Phật,… các vọng chẳng không (rỗng), động niệm làm trái với lẽ nhơn. Người mới học mộ đạo dứt vọng làm gốc.

HỎI: Thế nào là ma khẩu nghiệp?

ĐÁP: Ma khẩu nghiệp gọi là cuồng chướng, nếu chẳng dè dặt lời nói mà buông ý lắm mồm, thì tán tâm loạn niệm chẳng được tịnh tâm. Khẩu nghiệp do đâu mà lỗi nó quá nhiều? Bởi ưa bàn huyền nói diệu, giảng giải (kinh), nói tông (thiền), tự khoe rằng đã được ngộ, chê kẻ khác ngu mê, luận về sở trường sở đoản của người, nói sự phải quấy của người.ngâm thi vịnh phú, mở miệng xướng càn, bình luận chuyện xưa nay, bàn chuyện đất nước hưng phế, xưa kia là người hiền kẻ ngu, nay là kẻ ác người thiện. Chẳng quan hệ đến việc ta mà rống lời tranh luận chuyện được mất của người. Vô cớ chê khen, nói những cảnh dục khiến người sanh yêu. Nói chuyện bất bình khiến người sanh giận. Chê sau lưng, khen trước mặt. Tất cả những lời nói lợi hại khiến người quên mất chánh niệm. Người tham thiền cần yếu phải gắng gìn giữ, chẳng những ít lời nuôi đức mà lại khiến tâm chẳng loạn. Kẻ sơ cơ tu hành cẩn thận và kiêng giữ việc nầy.

HỎI: Thế nào là ma bệnh khổ?

ĐÁP: Ma bệnh khổ gọi là khổ chướng. Thân nhiều tật bệnh đều do nghiệp đời trước, hoặc do mất sự điều hoà mà biến sanh trăm thứ bệnh, chẳng được thọ dụng, làm cho người học đạosự chướng ngại. Nay tôi nêu lên mấy điều phải tự đề phòng: Điều hoà tỳ vị, tiết chế và chọn thức ăn uống, ít đắm mùi vị nồng hậu, lại phải cữ vật sống và lạnh. Khi đói chớ đọc tụng, lúc no chớ gánh vác nặng. Sau khi ăn chớ ngủ, tối cữ ăn no, thích ăn đồ thối nát, ưa ăn đồ chiên đồ xào, thích ăn ngũ vị, dùng nhiều vật quấy. Toạ Thiền nơi đất ẩm, ngủ nơi chỗ gió, đang ra mồ hôi mà nhảy vào nước, thích ấm tham mát, đang lúc gió mà tắm rửa, nằm trần ngoài trời, đói quá no quá, vui quá giận quá, lạnh quá nóng quá, mưa lớn sương nhiều. Bịnh nội thương ngoại cảm, tất cả đều do mất sự điều hoà nên sanh những bệnh hoạn, làm cho thân chẳng được yên. Kẻ hậu học phải biết mà dự phòng và tránh bệnh.

HỎI: Thế nào là ma hôn trầm?

ĐÁP: Ma hôn trầm gọi là thuỳ chướng (chướng về ngủ). Thuỳ chướng chẳng luyện trừ, hôn trầm quá nặng, chơn tâm chẳng sáng, huệ tánh chẳng phát khởi, rơi vào chỗ mờ tối của núi đen và hang ma. Nguyên nhơn của bệnh hôn trầm kia như thế nào? Sự hôn chướng nầy phần lớn cho ăn nhiều, tham nhiều vị ngon, nói nhiều làm tán khí, hình lao tì yếu, tinh thần chẳng trong lặng, độc khí hỗn loạn, ngu si nhiều giận tức, lười biếng buông lung. Chẳng nhớ nghĩ việc sanh tử chỉ tham an lạc. Kẻ hậu học khi dụng công nên phát tinh tấn: mang dùi chích thịt, cho đầu chạm vào cây cột, lễ Phật đốt đèn, đứng nơi nguy hiểm, đi kinh hành, khổ thân mài luyện ma ngủ mới nhẹ, nếu chẳng như vậy mặc tình ngủ nghỉ, thì chơn tâm chẳng sáng. Người tham thiền nên dũng mãnh hàng phục ma ngủ.

HỎI: Thế nào là đại thiên ma?

ĐÁP: Đại thiên ma chẳng đồng với các chướng. Bởi do tu hành đúng đắn, sắp chứng đạo quả, tâm tinh thuần thông suốt, lặng yên chẳng động, làm kinh động thiên ma và cung điện của quỉ thần đều sụp đổ, cõi đất rung động, ma chúa kinh hãi, loài yêu quái ở cây, ở đá cũng hoảng sợ. Tất cả loài ma mị đều có ngũ thông đồng đến não loạn, chẳng cho người vào thánh vị. Chúng biến ra những điều quái lạ, hoá ra những cảnh dục để làm loạn thiền định của người tu. Người tu nếu tâm sanh ra thủ xả ma liền được tiện lợi, mà người tu thì thọ hại. Tự phát điên cuồng, cho là đã thành Phật. Còn sống thì bị hãm vào nạn vua, lúc chết đoạ vào vô gián ngục. Kẻ sĩ tham thiền chánh niệm rõ ràng, trí huệ chiếu sáng, một lòng chẳng động, mặc tình chúng tác quái ta chẳng thèm thấy nghe, dùng chánh định hàng phục, ma tự nhiên tiêu diệt. Kẻ tu học đời sau phải cẩn thận và tự phân biệt cho rành rõ ma sự nầy.

Ở trên đã được nên lên mấy điều ma sự, nếu muốn hiểu cho khúc chiết rõ ràng, nên xem kinh Lăng Nghiêm nói về ma nghiệt trong ngoài. Tất cả những dị kiến, mỗi mỗi đều rõ ràng, khi hạ thủ dụng công chẳng rơi vào lưới ma, mà chứng thẳng quả Phật.









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26680)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28260)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29418)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33317)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21783)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30681)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31305)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37184)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32332)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27158)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20639)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22264)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24011)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22878)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23232)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30439)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30115)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23144)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22347)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21800)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28248)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19287)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20184)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30938)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41548)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32757)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19139)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34038)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24981)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23698)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25345)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27789)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25033)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23842)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58764)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23237)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20905)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28202)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28946)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19228)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24618)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21452)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23878)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28632)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29439)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17655)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31049)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25357)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18978)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20158)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23965)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19047)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20173)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20055)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24850)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19418)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22601)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61860)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31152)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22127)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant