Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I: Cảnh Tỉnh Kẻ Tục Mê

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10099)
Chương I: Cảnh Tỉnh Kẻ Tục Mê

VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp

Chương I
CẢNH TỈNH KẺ TỤC MÊ

Người thế tục hỏi: Tôi muốn thường ăn chay, có công đức chăng?

Thiền sư đáp: Các loài có vẩy, có mai, có lông mao, lông vũ, thể chất nó tuy khác với người, nhưng sự hiểu biết và sự đau khổ đâu khác chi người. Bởi đời trước nghĩ sai, nên đời này hình hài có khác. Nếu như một lòng tín thành dứt ăn thịt, giữ giới sát, thật là bậc “Đại đức quân tử”. Có thể bảo là người nhân từ, người thiện. Nếu quả ông ăn chay, giữ giới suốt đời không sờn lòng, chẳng những thêm nhiều phúc và thọ mà còn gieo được chánh nhơn giác ngộ. Khá thương cho người đời không trí huệ, tham đắm vị ngon mặc tình đồn chứa, ra tay sát hạt, tạo tác muôn ngàn. Chỉ ngon qua ba tấc lưỡi, một ngày kia cải đầu đổi mặt, lần lượt nuốt ăn. Lúc ấy đau khổ hối hận không người giúp cho.

HỎI: Người đời đều cho heo, dê, gà, ngỗng, các loài có vẩy, có mai, có lông mao, lông vũ v.v. trời sanh ra các loài này để làm đồ ăn cho người. Nếu không giết để ăn, dùng chúng làm việc gì?

ĐÁP: Người đời ăn thịt đương nhiên, buông lung tâm ý mổ giết để thích khẩu, khoái bụng. Đâu chẳng biết, tất cả chúng sanh dưới nước, trong đất, trên không, trên bộ, chẳng quan là do nghiệp lực quả báo mà có thân xác khác nhau. Người đời tuy nhờ phước nhứt thời mà khinh thường sát hại quá nhiều rồi. Tha lực yếu kém làm sao chống chỏi nổi hận oán kia? Có ngày sẽ báo đền oan trái. Quả thật nếu heo, dê v.v. trời sanh ra làm đồ ăn cho người, còn ở thế gian những loài sài lang, hổ báo, muỗi mòng, chí rận v.v. vô hạn ác thú hung cầm đều hay ăn người, đâu không phải trời sanh? Giả sử người nam kể nữ đều làm đồ ăn cho loài vật có nên không? Người đời không rõ tạo nghiệp sẽ có thường mạng lẫn nhau. Không biết cớ sao lại cho việc sát sanh là việc đáng nên làm, thật quá ngu muội.

HỎI: Tôi thường nghe người đời có nói: “Người nhiều lòng tốt cũng như ăn chay rồi”. Lý này thế nào?

ĐÁP: Bậc nhân đức quân từ, người hiền có lòng nhơn từ, làm lợi ích cho người, cứu tế loài vật, nhóm công chứa đức, cho đến những chỗ động dụng hay chỗ làm việc, thấy sanh linh rơi vào chỗ chết, lúc ấy đâu không khởi lòng trắc ẩn cứu cho được sống, có lòng từ bi như thế mới bảo là người tốt. Vô cớ giết nó cho vào miệng ta, hoặc cầm dao bén mổ bụng, hoặc nắm dao nhỏ đâm vào tim, lóc da, đánh vẩy, cắt cổ, bổ vỏ hay vào lò nướng, trăm cách tạo tác làm cho ngon miệng, khoái bụng, lòng thương xót hoàn toàn không, như vậy lòng tốt ở chỗ nào? mà lại nói lời mê như thế? Tội lỗi kia làm sao có thể sám hối? Tôi nay nói rõ ông hãy lắng nghe: Quả như ông một đời giữ giới sát, ăn chay suốt đời chẳng chán, dù tâm ông chẳng tốt, phải đoạ vào tay người giết, hoặc trong vạc sôi lò lửa.

HỎI: Tôi tuy nghèo mà trong sạch, chẳng bao giờ trộm cắp. Vậy thế nào?

ĐÁP: Không riêng gì lấy tài vật mới gọi trộm cắp, mà tham ô kẻ lương thiện, dùng tà thuật lừa đảo, xúi người kiện tụng, rủ rê dụ dỗ người cờ bạc, hại người tù tội, làm cho người nghiêng ngửa, hại người nơi hiểm nguy, làm cho hao tài tốn của, tráo đổi vật tốt của người, thiếu nợ chẳng trả, xâm lấn người ngu, chiếm đoạt kẻ yếu. Tất cả việc bất lương đều là trộm cướp cả. Nếu là người có trí huệ, thấy người giàu sang nên khởi lòng kính mến, mà hận mình đời trước không tu phước, đời này nghèo khổ phải cam chịu. Lại phát khởi tín tâm, tu phước lành, chứa công đức, những việc ác chớ làm, nên làm các việc lành. Tự nhiên không có phụ người chứa nhóm công đức lành vậy.

HỎI: Giữ tài sản một cách công bằng, nhưng chẳng bỏ hẳn lòng tham tích chứa, tùy sức mình mà kinh doanh. Vậy như thế nào?

ĐÁP: Giữ tài sản một cách công bằng thì nên. Tuy nhiên vật báu trên đời chứa lâu thành họa. Nếu vật báu có đến chớ nên chứa, nếu chứa chớ chứa lâu. Còn như tham cầu không chán, nhận ngang không thẹn, tuy một lúc được giàu có, nhưng chẳng khỏi tối lo sáng tính.

Kinh Phật nói: “Tài sản hiện tại của người đời là của chung của năm nhà. Năm nhà là nhà vua quan, nhà nước lửa, nhà trộm cướp, nhà giặc giã, con cháu tiêu phá. Người đời dại dột, đắng cay suốt cả một đời, tạo cho nhiều tiền của, mong được vĩnh viễn giàu có. Đâu biết đấy là phần của năm nhà một ngày kia sẽ tan nát. Như vậy giữ của một cách công bằng mà còn chẳng lâu thay, huống là giựt ngang hay lừa đảo mà có thề thường còn ư?”

HỎI: Tôi thường ít ham muốn về sắc dục, chỉ có một vợ, việc tà dâm tôi đoạn hẳn chẳng phạm. Vậy thế nào?

ĐÁP: Hai chữ sắc dụccăn bản của việc sanh tử. Trong các điều ác việc tà dâm tư tình gian dối là bậc nhất. Từ xưa tới nay nó là việc mất đạo tan đức, lại chuốc họa vào thân, không thể kể cho hết. Ngay nơi việc thích rượu chè, ham tiền của còn có thể chế, chỉ có một cửa ải sắc dục còn khốc liệt hơn gấp bội. Bởi chúng sanh gốc từ dâm dục mà tánh niệm phải tiếp nối sanh tử. Tập quán từ trước quá thuần thục, nếu không dùng trí huệ quán chiếu thì dục nghiệp làm sao rõ? Kẻ tại gia khó đoạn hẳn sắc dục, nhưng cần yếu là phải giữ cho chơn chánh: chẳng phải vợ nhà nhất định không thể làm hạnh tà. Có một bọn tục tử thấy vợ con người, dáng dễ coi liền khởi tà tâm, rồi nghĩ mộ tham cầu. Như vậy thì lý trời đã mê, lòng người đã mất.

Kinh Phật nói: “Gian dâm vợ người bị quả báo tuyệt tự. Gian dâm con gái người bị quả báo con cháu dâm dật, phóng túng”. Ông có thể đại khái nhìn những nhà người hiểu dâm hạnh xấu, bởi tiếp nối dòng tệ hại nên lần lần tiếng nhơ lan đến mọi người. Cổ nhơn nói: “Ta chẳng dâm vợ người, người chẳng dâm vợ ta”. Lại có một hạng chúng sanh mang nghiệp si, thấy người đàn bà khác vốn không phải vợ mình, cho người ấy đẹp, rồi bày điều gian dâm lừa đảo, trở lại bỏ bê vợ nhà chẳng đoái hoài. Hoặc thích gần gũi bỡn cợt trẻ ngoan. Hoặc tư thông với vợ người làm công, và khiến kẻ dưới lừa đảo người trên…muôn ngàn dâm nghiệp kể ra không xiết.

Lại có kẻ đọc sách tài tử, cũng cho học là người thông minh. Sách ấy miêu tả chuyện tư tình của phụ nữ nơi khuê môn, biên vào ca dao, làm thành sách vở, làm mê hoặc người thật thà, dẫn học vào tà niệm. Tội ác của kẻ ấy thật như núi cao, không thế nào cầu đảo mà hết được. Nếu là người có trí huệ phải nên tự hổ thẹn và tự ăn năn, mà đoạn tuyệt ngay nết tà dâm, thì cõi người cõi trời đâu đó có phần. Kẻ ngu ngày đắng miệng mà khuyên các ông: “Chỉ nhơn nghiệp dâm mà tội ác tạo ra nhiều lắm!”

HỎI: Dâm dục tội ác như vậy, khẩu nghiệp như thế nào?

ĐÁP: Trong mười nghiệp ác, chỉ có miệng là đã chiếm hết bốn rồi. Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác là giết người không máu. Kẻ ấy còn hơn người làm ác nhiều. Làm bại hoạt việc lành của người, nói chỗ yếu của người. Bàn biệc quấy của người, luận việc lỗi của người, lừa đảo tiền của của người, cho đến việc bại hoại đạo đức, chôn vùi người mà cũng chôn vùi mình, đều do không ngăn được cái bệnh lắm mồm của mình. Cho nên tự chuốc họa rất nhiều.

Kinh nói: “Phật bảo ngài A-nan rằng người đời tai họa từ nơi miệng mà lưu xuất phải nên giữ gìn cái miệng còn hơn giữ lửa. Lửa dữ thiêu đốt tài sảnthế gian, lửa ác khẩu thiêu đốt tài sản bảy báu của mình”. Tất cả chúng sanh tai họa từ nơi miệng mình mà ra, nó là chiếc búa chém mình, là cái họa tai tiêu diệt mình. Nay có người muốn nuôi dưỡng đức hạnh, phải ẩn ác dương thiện, phát ngôn nên nói lời chơn thật, đàm luận không nên nói bậy, có hỏi có đáp, lời nói giản dị, khí sắc ôn hòa, thì chư Phật chư thiên gia hộ và cũng được người thương yêukính trọng.

HỎI: Tánh tôi thích uống rượu, như vậy thế nào?

ĐÁP: Tâm tánh mê mờ, chí khí bị chôn vùi, nhà cửa tan nát, lại còn mất mạng, phần nhiều do uống rượu mà ra, và chuốc họa tai không ít. Người đời mê rượu không chán, cho đến hình hài bị hủy thương, điên đảo cả lễ pháp, nằm lăn nơi phố chợ, la ó om sòm, phạm lỗi người trên mất hết danh dự, loạn dâm mất đức, muôn ngàn việc lỗi lầm nghịch ngợm là do tham uống rượu.

Người xưa nói: “Ngăn ông chớ uống rượu, nó là thuốc làm điên loạn chớ chẳng phải vị ngon. Nó hay khiến người tánh tình thuần hậu thành kẻ hung dữ dối láo”. Trong luật tứ phần nói: “Uống rượu có ba mươi sáu lỗi. Chẳng những người đời uống rượu phạm lỗi, cho đến la hán tham uống rượu cũng mất hết thần thông”. Chúng sanh mê muội, kẻ phàm phu sơ học phải giữ gìnkiêng cữ uống rượu.

HỎI: Xin nói ba mươi sáu lỗi gồm những gì?

ĐÁP: Uống rượu có ba mươi sáu lỗi là: bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn thầy dạy, chẳng kính trọng Tam bảo, bài báng hàng Sa-môn, bươi móc tội người, thường nói lời vọng, vu người làm ác, đem lời thâm thọc hai đầu, nói lời hung ác hại người, là gốc của bịnh hoạn, là rễ của đấu tranh, tiếng ác đồn khắp, người hiền đều chán, bài xích thánh hiền, khinh lờn trời đất, hư mất sự nghiệp, phá nát gia tài, thường không biết hổ thẹn, chẳng biết sỉ nhục, vô cớ đánh người ở, giết hại chúng sanh, gian dâm vợ người, trộm tài vật của người, lơ là với người hiền, gần gũi bạn ác, thường ôm lòng sân hận, ngày đêm lo rầu. Lấy đông đưa tây, giữ nam mắc bắc, nằm đường té rãnh, rơi xe té ngựa, gặp sông rơi xuống nước, cầm đèn bị cháy, tháng nắng nóng chết, ngày lạnh rét chết. Người uống rượu có những lỗi như vậy. Người quân tử nuôi đức, phải tự răn mình đừng uống rượu.

HỎI: Tôi có chỗ tốt là khi bị người ta điểm nhục mà không giận dữ, nếu có chút phiền, nhưng khi biết rồi cũng hết. Vậy thế nào?

ĐÁP: Giận dữ là gốc của muôn điều chướng ngại, nhẫn nhụcđứng đầu của trăm phước. Người đời nói nhẫn nhưng mà chữ nhẫn rất khó, không phải là người trí huệ quyết không thể nhẫn được. Trừ ngoài Phật Tổ được như như chẳng động. Kẻ hào kiệt, người sơ học phần nhiều do không nhẫn mà bị thất bại, và bị hãm vào chỗ bất như ý. Kinh Phật nói: “Nhẫn nhục là bậc nhất”. Tục ngữ có câu: “Ăn được ba đấu tương chua, giấm đặc mới làm được tể tướng”. Kẻ phàm phu ở đời còn như vậy, huống là người học đạo không rộng lòng nhẫn nhục ư?

HỎI: Người đời nhiều lòng tham, gom góp tài sản cho thật nhiều. Tự bảo là để lại cho con cháu sau này được giàu có, được hay chăng?

ĐÁP: Kẻ ngu sithế gian ý cậy quyền thế, mê tâm chôn đức, có trăm cách khéo léo để lấy, dù được giàu có bất ngờ, nhưng có bao giờ được lâu dài. Nếu là người trí huệ nên phải chứa công nuôi đức, tuỳ khả năng mình mà kinh doanh, theo đúng mệnh trời, tự nhiên chư thánh phò hộ, âm thầm tăng trưởng phước lộc. Người đời chỉ biết vì con cháu lo làm giàu, chớ chẳng biết vì con cháu làm lành tạo phúc. Thế nào gọi là phúc? Kính trọng Tam bảo, chứa nhóm âm đức, cẩn trọng qui tắc của gia đình, dạy người cố gắng làm việc và học hành, đấy là tạo phúc.

Thế nào là cầu làm giàu? Không thành tín mê mờ thiên lý, dùng tâm máy móc, gom góp tiền của không hợp lý, đấy là cầu giàu có. Kẻ cầu giàu chẳng thạnh người tạo phúc sẽ hiển vinh. Há chẳng thấy kẻ giàu to ở đời, con cháu hư hèn, cờ bạc phóng túng, một ngày kia sẽ phá cửa nhà, cho đến mất thân mạng. Chuyện này thường có xảy ra, sao không lấy đó làm gương? Tục ngữ nói: “Được của không chánh đáng, bỏ được là tốt”. Người trí xem biệc này chưa khỏi lạnh lòng!

HỎI: Như đã mở bày, muốn làm người tốt phải xem tất cả như không, và thường thường kiểm điểm, phải vậy chăng?

ĐÁP: Muốn làm người tốt phải tự soi xét: suốt một ngày từ sáng đến chiều phải soi tâm mình và tự xét lý kia. Khi khởi tâm động niệm có cùng tâm trời hợp không? Hành động hàng ngày có cùng với người hợp không? Hằng thường tỉnh táo, không rơi vào tư riêng lâu ngày tâm được chánh, nhơn dục tự nhiên hết.

Nếu là người buông lung tâm ý, chẳng sợ trời phạt, chẳng sợ báo ứng, phi lễ mà hành động, mà tạo tá, lâu ngày chầy tháng, tích chứa nghiệp ác quá nặng, một mai phúc hết, các nghiệp đến bên thân, hiện đời gặp tai họa, khi chết đoạ ba đường ác. Kinh Phật nói: “Nghiệp đã tạo, giả sử trải qua trăm ngàn kiếp cũng không mất, khi nhơn duyên hội ngộ, mình phải trở lại chịu quả báo”. Thế nên biết, nhơn quả chẳng sai, người đời sau hãy tin chắc thật.

HỎI: Việc nhơn quả có nhiều người không tin. Vậy thế nào?

ĐÁP: Việc nhơn quả báo ứng chẳng sai chẳng lầm, giống như bóng theo hình, một mảy may không lộn lạo. Các bậc tiên thánh đã nói việc này rất rành rõ. Người sau ngu mê chẳng tin, phải nên tế nhị mà xét: Người đời có kẻ giàu sang, người bần tiện, có kẻ chết yểu, người trường thọ, có kẻ được vinh dự sủng ái, có người gian nan nhục nhã, có người khổn khổ, kẻ an nhàn, có người trẻ mà được đăng khoa, có người suốt đời thi chẳng đậu, có người rất giàu có mà không con, kẻ nghèo xơ xác mà nhiều người kế hậu, có người ấu niên, trung niên, lão niên khổ vui chẳng đồng, có người nghèo hay giàu sang suốt một đời, còn muôn ngàn việc sai khác nhau chẳng nhất định, ấy tất cả đều do nghiệp cảm nên. Người xưa nói: “Mùa xuân gieo một hạt thóc, mùa thu được muôn vạn hạt. Người đời làm thịện ác quả báo cũng như vậy” (xuân chủng nhất lạp túc, thu thu vận khoả tử, nhơn sanh vi thiện ác, quả báo hoàn như thể). Thế nên biết, sự vui buồn trong ba cõi, sự thăng trầm trong sáu nẻo, đều do tự mình tạo và tự mình chịu lấy, không phải từ bên ngoài đem đến cho mình.

HỎI: Tôi thấy người trung chánh lương thiện lại nghèo không một gánh lúc. Lại có bọn điêu ngoa hung ác mà ruộng đất cò bay thẳng cánh. Như vậy nhơn qủa há chẳng lầm ư?

ĐÁP: Tạo thiện ác chẳng đồng nhau, nên quả báo cũng chẳng nhất định: Có lúc báo ngay nơi thân mình, có khi báo nơi thân con cháu, có khi báo đời này, có lúc báo đời sau. Như có người ăn cơm hẩm, kẻ ăn cao lương. Người mặc áo gấm, kẻ áo lông. Lại có kẻ lầu son gác tía, lên xe xuống ngựa. Tất cả đều do đời trước tự làm điều thiện hay điều ác, mà nay chịu quả báo khổ hay vui, một mảy may chẳng sai chạy. Chỉ thấy kẻ hung ác mà được giàu sang, đâu biết được người ấy đời trước đã tu phước? Hoặc thấy người rất từ thiệnnghèo khó lại mạng yểu, ấy là do đời quá khứ tạo nghiệp ác mà ra.

Trang Tử nói: “Tên đạo chích theo đoàn quân chín ngàn người, hoành hành thiên hạ, xâm bạo các nước chư hầu mà tên ấy vẫn trường thọ”. Trong Luận ngữ sớ nói: “Hạng Thác bảy mươi tuổi làm thầy Đức Khổng Tử mà chết yểu”. Cho nên có người trong sạch chân chánh mà thân bần cùng. Hoặc có người tham ô mà giàu có. Chớ chấp hiện đời này có sai khác mà bài báng nhơn đời trước thì sai lầm vậy.

HỎI: Sự báo ứng của thiện ác, lý kia không sai. Có một bọn ngu si chẳng tin nhân quả, trở lại nói: “Lương tâm chẳng thể làm ra gạo. Nếu lương tâm hay vào nồi thành cơm thì cũng có thể nên làm”.

ĐÁP: Khá tức cười, thật là quá ngu si điên đảo. Ông, nếu lương tâm từ sáng đến tới không dối, thì phù hợp với lòng trời, lúc ấy thần cũng vui vẻ, người cũng hân hoan. Niềm hòa khí được cảm triệu, thì tự nhiên tươi vui. Kinh thi nói: “Niềm vui chỉ đến với người quân tử, và phước lộc sẽ đến với họ”. Nếu do chôn vùi đức hạnh mà được tiền của, bỏ tấm lòng mà được giàu có, thì mới trở lại bài báng lương tâm vô dụng, không thể vào nồi thành cơm. Đâu biết hạng người này đã mê mồ lý trời, trong bóng tối thần giận qủi hờn, giảm phúc tổn thọ, nghèo thiếu nạn tai, cho đến con cháu hư hèn, việc lạ đâu chẳng có.

Sách Văn Xương nói: “Người tu thân sửa hạnh, trời nhất định giáng cho trăm điều lành. Trái lại kẻ phản đạo bại đức, thần cũng đoạt năm phước”(1). Thế nên, phước thiện hay hoạ tai, lý nó tất nhiên nhất định như vậy. Nếu chịu cải ác làm lành, chẳng khinh lờn, tự nhiên Phật trời ngầm phò hộ, phước thọ được tăng trưởng.

HỎI: Người có lỗi biết ăn năn có thể được chăng?

ĐÁP: Đã là người ai chẳng có lỗi lầm, biết lỗi lầmăn năn chừa cải, thì điều lành nào chẳng lớn? Sự lỗi lầm ác hại chẳng phải có một. Nên nơi thân miệng ý phải luôn tỉnh táo, nhất định giờ phút nào cũng phải soi xét xem hành động mình có thích đáng hay không. Nếu là thiện nên làm, còn ác thì mau cải đổi. Sự đổi ác theo thiện như con bệnh ra mồ hôi, tự nhiên sẽ được may mắn, vui vẻ, chư thánh sẽ phò hộ cho.

HỎI: Giả sử chiếu xét chẳng đến, một lúc sanh tâm động niệm, chưa biết phải háng phục tâm ấy như thế nào?

ĐÁP: Người xưa trị tâm rất khít khao, cho nên gặt hái được nhiều kết quả to lớn. Tất cả những tâm thiện ác của con người đều do NIỆM. Khi niệm dấy động nên mau mau tỉnh giác. Tỉnh giác nó liền thành không. Thu nhiếp như vậy lâu ngày chầy tháng tự nhiên tâm chánh. Kinh Thư nói: “Buông lung niệm là người điên, chế phục được niệm là bậc thánh”. Lời nói này rất chi lý và nên theo đó mà hành.

HỎI: Người tại gia năm dục (2) cột trói, không thể thoát liền được, chưa biết có phương tiện gì để tu lần hay không?

ĐÁP: Người tại gia tu hành việc ấy rất khó, phải dũng mãnh kiên chí và thường lâu mới được. Nên trong lúc động tịnh hàng ngày, trong lúc rảnh rang hay lúc bận rộn, chỉ riêng đề khởi một câu A Di Đà Phật, rồi hồi quang phản chiếu, chỉ giữ một niệm. Giả như có nhiều vòng lửa xoay trên đầu nhất định cũng không bỏ một niệm này, mặc tình cho tám gió (3) đến xung kích ta, chẳng cho mất một niệm này, lâu ngày chầy tháng một niệm được thuần chơn. Trở lại đem một niệm này phá nát ra, lúc ấy tự tánh Di Đà mới hiện. Giả sử hành như vậy, suốt một đời chẳng ngộ, khi báo tận mạng chung (chết), tự giữ một niệm, thẳng đến đường chánh. Trở lại làm người một nghe ngàn ngộ, thấy tánh thành Phật đã có phần. Đây là yếu chỉ của biệc trở về tâm (qui tâm). Trái lại chờ hướng bên ngoài mà dong ruổi tìm cầu. Tự mình phải lời nói và hành động không trái, thì mới gọi là chơn chánh thọ dụng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26658)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28246)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29389)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33295)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21771)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30663)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31276)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37156)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32313)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27136)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20622)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22259)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23996)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22869)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23211)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30422)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30095)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23136)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22331)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21793)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28232)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19267)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20171)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30916)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41524)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32735)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19128)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34020)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24974)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23688)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25328)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27774)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25011)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23830)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58719)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23220)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20892)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28178)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28933)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19212)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24604)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21442)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23861)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28617)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29419)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17653)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31032)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25340)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18964)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20149)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23948)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19039)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20162)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20045)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24838)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19409)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22578)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61826)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31139)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22113)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant