Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cư Sĩ Giới Pháp

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 22251)
Cư Sĩ Giới Pháp

THERAVĀDA - PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
CƯ SĨ GIỚI PHÁP

Tỳ kheo Giác Giới (Bodhisīla Bhikkhu) biên soạn

PL. 2550 - TL. 2006

blank
MỤC LỤC

Chương I. Cư sĩ trong Phật giáo 
I.1. Tứ chúng Phật giáo 
I.2. Ý nghĩa U-bà-tắc và U-bà-di 
I.3. Những cư sĩ đầu tiên 

Cận sự nam đầu tiên qui y nhị bảo 
Cận sự nam đầu tiên qui y Tam bảo 
Cận sự nữ đầu tiên qui y Tam bảo 
I.4. Những cư sĩcông hạnh lớn 
Người cư sĩ xây dựng ngôi chùa đầu tiên
Người cư sĩ hộ độ Tam bảo tích cực 
Người cư sĩ hộ pháp quan trọng 
I.5. Quả vị tu hành của người cư sĩ 
I.6. Vai trò cư sĩ trong Phật giáo 
Vai trò hộ pháp 
Vai trò thừa tự pháp 
Chương II. Các pháp môn thuyết cho cư sĩ 
II.1. Mười hạng cư sĩ 
II.2. Năm pháp tánh người cận sự Tam bảo 
II.3. Mười đức lành của người Phật tử 
II.4. Bốn điều hạnh phúc của cư sĩ 
II.5. Bốn pháp tạo lợi ích hiện tại 
II.6. Bốn pháp đem lại lợi ích tương lai 
II.7. Bốn đức hạnh người tại gia 
II.8. Bốn pháp thịnh của gia đình 
II.9. Tám nguồn công đức sanh trời người 
II.10. Bốn sự chung sống gia đình 
II.11. Bốn nhân duyên tạo xứng đôi vợ chồng 
II.12. Năm nghề buôn bán trái đạo của cư sĩ 
II.13. Mười bất thiện nghiệp đạo 
II.14. Mười thiện nghiệp đạo 
II.15. Mười phước nghiệp sự, thập hạnh phúc 
II.16. Bảy pháp bất thối của người cư sĩ 
II.17. Bảy pháp suy thoái của người cư sĩ 
II.18. Tám lỗi lầm khiến tăng chúng úp bát 
II.19. Chín khuyết điểm - Tăng không đến nhà 
II.20. Sáu cửa suy vong cho người cư sĩ 
II.21. Bốn hạng ngụy bằng hữu 
II.22. Bốn hạng chân bằng hữu 
II.23. Các bổn phận giữa cha mẹ và con cái 
II.24. Các bổn phận giữa thầy và trò 
II.25. Các bổn phận giữa vợ và chồng 
II.26. Các bổn phận giữa bạn bè chủ khách 
II.27. Các bổn phận giữa người chủ và người làm 
II.28. Các bổn phận giữa cư sĩsa môn 
Chương III. Pháp môn tu tập của cư sĩ 
III.1. Qui y Tam bảo (Tisaraṇagamana) 
Ý nghĩathái độ qui y 
Yếu tố để thành tựu qui y 
Hình thức qui y 
Sự kiện bợn nhơ qui y 
Sự kiện đứt đoạn qui y 
Lợi ích của sự qui y 
III.2. Hạnh bố thí (dāna) 
Ý nghĩa pháp bố thí 
Điều kiện bố thí 
Hình thức bố thí 
Tâm lý bố thí 
Cung cách bố thí 
Quả phúc bố thí 
III.3. Hạnh trì giới (sīla) 
Ý nghĩa pháp trì giới 
Yếu tố trì giới 
Phân loại giới của người cư sĩ 
Chi của giới 
Pháp hỗ trợ cho giới 
Quả phúc của sự trì giới 
III.4. Hạnh tu tiến (bhāvanā) 
Ý nghĩa tu tiến 
Các hình thức tu tiến 
Pháp môn tu tiến cho người cư sĩ 
Điều kiện cho việc thực hành tu tiến 
Tu tiến với đề tài tùy niệm
Niệm Phật 
Niệm pháp 
Niệm Tăng 
Niệm giới 
Niệm thí 
Niệm thiên 
Niệm chết 
Niệm thân 
Niệm hơi thở 
Niệm tịch tịnh 
Tu tiến với đề tài bốn phạm trú
Tu tập tâm từ 
Tu tập tâm bi 
Tu tập tâm hỷ 
Tu tập tâm xả 
Tu tiến với đề tài quán tưởng 
Chương IV. Các nghi thức khóa lễ 
IV.1. Nghi thức tụng niệm 
IV.2. Nghi thức qui y 
IV.3. Nghi thức thọ ngũ giới 
IV.4. Nghi thức thọ bát quan trai giới 
IV.5. Nghi thức sám hối lệ kỳ mỗi nửa tháng 
IV.6. Nghi thức thính pháp 
IV.7. Nghi thức lễ cầu an 
IV.8. Nghi thức lễ cầu siêu 
IV.9. Nghi thức chúc thọ 
IV.10. Nghi thức cúng dường trai tăng 
IV.11. Nghi thức cúng dường bát hội 
IV.12. Nghi thức cúng dường y tắm mưa 
IV.13. Nghi thức cúng dường y kaṭhina 
IV.14. Nghi thức cúng dường y ngoại thời 
IV.15. Nghi thức cúng dường liêu cốc 
IV.16. Nghi thức cúng dường hội trường 
IV.17. Nghi thức cúng chánh điện 
IV.18. Nghi thức cúng dường thuốc trị bệnh 
IV.19. Nghi thức cúng dường tứ sự 
IV.20. Nghi thức ấn tống kinh sách 
IV.21. Nghi thức lễ an vị Phật 
IV.22. Nghi thức lễ nhiễu Phật 
Chương Phụ lục. Các vấn đề cần biết 
Vấn đề thờ cúng của người Phật tử 
Vấn đề lễ nghi của người Phật tử 
Vấn đề trang phục của người Phật tử 
Vấn đề ngôn ngữ của người Phật tử 
Vấn đề ẩm thực của người Phật tử 
Vấn đề hưởng thụ của người Phật tử 

LỜI GIỚI THIỆU

Cư Sĩ Giới Pháp là tập sách giáo khoa Phật học của người cư sĩ, giải thích rõ ràng về nghi lễ giới luậtpháp môn tu cho người Phật tử tại gia biết để thực hành cho đúng ý nghĩa cận sự nam, cận sự nữ (hay thiện nam, tín nữ) trong Phật giáo.

Mặc dù đời sống của người Phật tử đặt trên tinh thần tự giác, và giáo lý nhà Phật cũng không phải là giáo điều áp đặt, bắt buộc tín đồ phải chấp nhận, thế nhưng cũng có những điều nên làm và những điều nên tránh, được y cứ trên luật nhân quả nghiệp báoĐức Phật là đấng Đạo Sư sáng suốt thấy rõ chân lý, như các nhà khoa học phát minh những công thức điện học, quang học v.v...

Những giới pháp trong quyển Cư Sĩ Giới Pháp này như là những công thức hơn là giáo điều, để giúp người cư sĩ tại gia tu tập tiến hóa.

Tôi xin trân trọng giới thiệu đến chư Phật tử

Namo buddhāya. 
Tỳ Kheo Giác Chánh

 
 

LỜI NÓI ĐẦU

Người tu Phật có hai giới, giới xuất gia và giới tại gia. Giới tại gia là những nam, nữ cư sĩniềm tin Phật pháp, tạo thiện phước, cũng tu tập nhưng chưa rời bỏ gia đình

Người cư sĩ cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn vong của Phật giáo. Người cư sĩ cần phảikiến thức Phật pháp căn bản và biết về lễ nghi khi đến chùa làm phước hay ở nhà xử sự cho hợp lẽ đạo. Tất nhiên, có sự khác biệt giữa Phật tử Nam Tông, Phật tử Bắc TôngPhật tử Khất Sĩ. Ở đây quyển Cư Sĩ Giới Pháp này nhằm hướng dẫn cho cư sĩ Phật tử Nam Tông.

Đã từ lâu Phật tử Nam Tông vẫn mong mỏi có được một quyển kinh hướng dẫn luật nghipháp môn tu tập cho hàng cư sĩ.

Những quyển kinh Nhật Hành của cư sĩ hay quyển Kinh Tụng cho người tại gia đã được các vị Hòa Thượng như Ngài Hộ Tông, Ngài Pháp Tri biên soạn, cũng đáp ứng được nguyện vọng của Phật tử. Nhưng gọi là để nêu rõ nét về vai trò cư sĩ, nghi lễ thực hành, pháp môn tu tập dành riêng cho cư sĩ ... thì phải nói là chưa có quyển kinh Nhật Hành nào đáp ứng được.

Chúng tôi tài hèn sức mọn nhưng cũng cố gắng sưu tập và biên soạn quyển Cư Sĩ Giới Pháp này nhằm đáp ứng nguyện vọng của giới Phật tử cư sĩ. Thật ra, chúng tôi đã san định lại quyển Cư Sĩ Giới Pháp ấn hành năm Tân Dậu 1981, của Hội Học Tam Tạng do Thượng Tọa Giác Chánh chủ xướng; nay chúng tôi soạn lại theo sự yêu cầu và khích lệ của Thượng Tọa

Quyển Cư Sĩ Giới Pháp này, gồm có năm chương:

Chương I - Cư sĩ trong Phật giáo
Chương II - Các pháp môn dành cho cư sĩ 
Chương III - Pháp tu tập của cư sĩ 
Chương IV - Các nghi thức khóa lễ 
Chương Phụ lục - Các vấn đề cần biết

Chúng tôi soạn trích dẫn từ Kinh tạng, Luật tạng những điều Đức Phật thuyết liên quan đến đời sống người cư sĩ; riêng phần nghi lễ thì chúng tôi soạn dựa theo các kinh Nhật Hành đã có và cũng theo kinh nghiệm cá nhân qua quá trình hướng dẫn Phật tử từ trước đến nay.

Chúng tôi thật sự rất mạo muội khi làm công việc này. Nhưng với thiện chí phụng sự Phật pháp và giúp ích cho hàng Phật tử cư sĩ, chúng tôi mong được sự khích lệ của chư tăng, không phải là sự khiển trách; cũng mong giúp nhiều lợi ích cho tín đồ Phật giáo Nam Tông. Được vậy chúng tôi rất hoan hỷmãn nguyện.

Mong cho Phật pháp thịnh hành, tứ chúng đồng tu trong niềm an lạc.

Tỳ Kheo Giác Giới
Bodhisīlabhikkhu

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49774)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34653)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33466)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43950)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57108)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47587)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39432)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52969)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36622)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32255)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40502)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43509)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31478)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46731)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36225)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28720)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29263)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31917)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28858)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33394)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29165)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61008)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39803)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26705)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29697)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37407)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40110)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42693)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37296)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28314)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28909)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26414)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27183)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26205)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34699)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27832)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30495)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33311)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28579)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30091)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25496)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21862)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51338)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26745)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28640)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27727)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24370)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27483)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31969)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30213)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27731)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35480)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27473)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30032)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31800)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23044)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24203)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23049)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant