Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10: Trường Du già hoặc Duy thức tông (Yogācāra)

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8770)
Chương 10: Trường Du già hoặc Duy thức tông (Yogācāra)

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

Chương 10
TRƯỜNG DU GIÀ

hoặc Duy thức tông (Yogācāra)

Các tài liệutác giả

Trường Duy thức (Yogācāra), bám rễ vào những ý tưởng của vài bộ kinh (Suttas), bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ ba sau Công nguyên. Bộ Giải Thâm Mật Kinh (Saṃdhinirmocana-sūtra) (“giải thoát những ý nhĩa căn bản”), và tự cho rằng đây là “chuyển bánh xe pháp lần thứ ba”, vượt hẳn hai lần trước: những bài giảng về Tứ Diệu Đế, và Kinh Bát Nhã, và kinh Đại Thừa-Thắng Pháp (Mahāyāna-abhidharma Sūtra). Bộ kinhảnh hưởng lớn là kinh Lăng Già (Lankāvatāra Sūtra) (“Thế hệ Lăng Già”), được phát triển từ từ vào khoảng năm 300 trước Công nguyên cũng chứa đựng nhiều ý tưởng của Duy thức (Yogācāra), trong một bản tóm lược không có hệ thống của những bài giảng Đại thừa (Mahāyāna). Asanga (thế kỷ thứ tư, thứ năm) thành lập trường Duy thức (Yogācāra) như là một trường riêng rẽ. Theo truyền thống, Asanga là một vị tu sĩ thọ giới trong hội đoàn huynh đệ Thượng Tọa Bộ- Di Sa Tắc (Sthaviravādin Mahīśāsaka). “Thầy” của Asanga là Maitreyanātha, hoặc Maitreya, có thể là một người thầy, hoặc là vị Bồ Tát Maitreya trên thượng giớiĐồng thời, Asanga cũng làm cho Vasubandhu, người em cùng mẹ khác cha/ cùng cha khác mẹ, đổi đạo theo Đại Thừa (Mahāyāna). Cuộc tranh luận giữa các học giả là không biết người em của Asanga có phải là “Vasubandhu”, người đã sáng tác Nhất Thiết Hữu Bộ - Thắng Pháp (Sarvāstivadin-Abhidharma-kośa) vẫn còn là một nghi vấn.
Những tác phẩm của Asanga gồm có Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahāyāna-saṃgraha) (“ Bản Đại thừa trích yếu”), bản Đại thừa A-tì-đạt-ma tập luận (Abhidharma-samuccaya) (“Kết tập A-tì-đạt-ma luận”), một bản dịch của Duy thức (Yogācāra) về Thắng Pháp (Abhidharma), và một bình luận về kinh Giải Thâm Mật (Saṃdhinirmocana Sūtra). Những tác phẩm khác có liên đới với Asanga được quy cho các truyền thống theo “Maitreya” của Trung Hoa và Tây Tạng, với ý nghĩa là vị Bồ Tát (Bodhisattva) nầy gây hứng khởi cho Asanga để viết nên những tác phẩm nầy. Một tác phẩm quan trọng nhất có tính cách triết lý là Trung Biện Phân Biệt Luận (Madhyānta-Vibhāga) (“Sự khác biệt giữa trung dung và quá khích”). Những tác phẩm quan trọng nhất của Vasubandhu là: Duy thức Tam thập luận (Triṃśatikā-kārikā) (“30 câu”); Nhị Thập tụng luận (Viṃśatikā-kārikā) (“20 câu”) và bài bình luận của ông về 20 câu nầy, Nhị Thập Tụng Luận (Vimāśatikā-Vṛtti); Tam tướng Duy thức (tri-svabhāva-nirdeśa) (“Bài bình luận về ba bản chất “), và lời bình của ông về Trung Biện Phân Biệt Luận (Madhyānta-Vibhāga), Biện Trung Biên luận tụng (Madhyānta-Vibhāga- kārikā-bhāsya).

Định hướng của Du già hay Duy thức (Yogācāra)

Asanga và Vasubandhu không chỉ phát triển những ý tưởng đặc trưng của trường Du già/ Duy thức (Yogācāra), nhưng cũng tìm kiếm để hệ thống và tổng hợp hóa những bộ phận của Đại thừa (Mahāyāna), và những ý tưởng của Thanh Văn Thừa (Śrāvakayāna). Trong khi Vasubandhu chủ yếu là một nhà lý thuyết, đã cho trường phái Duy thức một hình thái kinh điển, thì các tác phẩm của Asanga lại bắt rễ trong sự thực tập thiền định (dhyana ,Pali Jhāna), hoặc sự nhập định trầm tư mặc tưởng. Cho nên, phái Du già (Yogācāra) nghĩa là “thực tập du già”, đối với sự phát triển thiền định trên con đường của vị Bồ Tát (Bodhisattva’s path). Dù cho người phái Trung Quán (Mādhyamikas) và người phái Du già (Yogācārins) có những khác biệt về triết lý, nhưng cả hai bên đều cùng một mục đích, hướng đến quả vị Phật, và như thế cả hai phái được xem là bổ túc cho nhau để cùng đạt mục tiêu. Người phái Trung Quán (Mādhyamikas) có đường lối phân tách, và biện chứng đối với thực tại, nhấn mạnh đến trí tuệ (prajña- wisdom); người phái Du già (Yogācārins) nhấn mạnh đến thiền định trầm tư mặc tưởng (samādhi-meditative concentration) và thu hồi tinh thần khỏi những hiện tượng của giác quan. Y như những Phật tử trước đó đã tìm kiếm để chuyển hóa những bám víu giới hạn bằng cách xem những hiện tượngvô thường, bất như ývô ngã, vì thế phái Trung Quán (Mādhyamikas) xem những hiện tượng nầy là “không”, và phái Du già (Yogācārins) thì thấy chúng là sự cấu tạo của tinh thần.

Phái Trung Quán (Mādhyamikas) xem kinh nghiệm thế gian như một sản phẩm của sự cấu tạo khái niệm, nhưng không màng đến những chi tiết tâm lý của tiến trình nầy. Phái Du già (Yogācārins) thì nhắm vào câu hỏi nầy và những câu tương tự. Thí dụ, làm thế nào các ký ức và kết quả của nghiệp quá khứ được chuyển giao qua thời gian, nếu một chúng sinh chỉ bao gồm một dòng những sự kiện ngắn ngủi, như được diễn tả trong Thắng pháp (Abhidharma)?

Ở đây, câu trả lời của phái Du già (Yogācārin) được dựa trên những bộ kinh của các trường phái trước đó, như kinh Thí dụ bộ (Sautrāntikas), cho rằng một chuỗi “hạt giống” nghiệp ngắn ngủi tự tái sản xuất theo thời gian, và kinh Phân biệt thuyết bộ (Vibhajjavādins) cho rằng tiềm thức (bhavanga) làm tiếp nối một nhân cách, kể cả lúc ngủ mà không mơ. Để tiếp tục đấu tranh với những câu hỏi như thế, phái Du già (Yocāgāra) phát triển ra một văn chương mới trong khuôn khổ Đại thừa (Mahāyāna).

Chủ yếu của phái Du già (Yocāgāra) là nhấn mạnh về ý thức; thật vậy sau nầy một tên khác của trường là Duy thức tông (Vijñāna-vāda), “Bài giảng về Ý thức”. Trong buổi ban đầu của Phật giáo (xem ch.3), dòng chảy của ý thức được xem là một gạch nối quan trọng giữa các sự tái sinh, và một trạng thái ý thức được biến đổiliên quan đến Niết Bàn (Nibbāna). Tinh thần nhận biết giải thích những kinh nghiệm và tạo dựng một “thế giới”, và có thể là nền tảng để kinh nghiệm thế giới - vượt hẳn Niết Bàn (Nibbāna). Theo phái Du già (Yocāgāra), vai trò của tinh thầncấu tạo thế giới được củng cố bằng những khái niệm của một thực tại vật chất bị loại bỏ: thế giới nhận biết được xem như “chỉ là- biểu hiệu” (vijñapti-mātra) hoặc “chỉ là ý nghĩ” (citta-mātra). Nơi đây, phái Du già (Yocāgārins), đi xa hơn một bước đối với lý thuyết của Thí dụ bộ (Sautrāntikas), ở đây những đối tượng được xem là thật, nhưng chúng chỉ được nhận biết bởi sự suy luận từ những biểu hiệu mà chúng tạo ra ở nơi tinh thần.

Phái Du già (Yocāgāra) 
Trung Quán (Madhyamaka)

Người của cả hai phái Trung Quán (Madhyamikas) và Du già (Yocāgārins) đều xem họ là người gìn giữ Trung Đạo của Phật giáo (Buddhist Middle Way) giữa phái hư vô thuyết (nihilism) (mọi vật đều không thật) và phái thực thể thuyết (substantialism) quá khích (những thực thểthực chất đều hiện hữu). Người phái Du già (Yocāgārins) phê bình người phái Trung Quán (Madhyamikas) là nghiêng về phía hư vô thuyết, trong khi người phái Trung Quán (Madhyamikas) phê bình người phái Du già (Yocāgārins) là nghiêng quá nhiều về vật chất, khư khư cho rằng tinh thần là một thực thể cuối cùng trong khi tất cả mọi thứ khác đều là “rỗng không”. 

Sự đánh giá của Trung Quán (Madhyamaka) được phản ảnh với giản đồ của thế kỷ thứ năm, sau nầy được dùng ở Tibet, những ý kiến của các trường được xếp loại theo nhận thức của họ về chân lý: (i) Đại-tì-bà-sa-luận – Nhất thiết hữu bộ (Vaibhāṣika-Sarvastivāda), (ii) Thí dụ bộ (Sautrāntika), (iii) Duy thức (Citta-mātra; Yogācāra), (iv) Trung Quán (Madhyamaka). Để đạt được trình độ của Trung Quán (Madhyamaka), những trường phái khác phải học dần dần để tiến lên. Hơn nữa, phái Du già (Yocāgāra - Trung Quán (Madhyamaka) sau nầy phát triển như là một trường phái dung hợp rất mạnh. Vật chất đối với phái Du già (Yocāgāra) thật ra là hiển nhiên hơn là chân thật, theo những lý thuyết của họ về tinh thần chỉ là những phương sách ướm thử, “phương tiện thiện xảo” được dùng cùng với một chuỗi thực tập thiền định, để đưa dẫn người thực tập vượt hẳn những cấu tạo tinh thần, kể cả các lý thuyết, và để đạt được kinh nghiệm trực tiếp với thực tại cuối cùng. Đối với họ, một người không thể đi xa hơn với chữ nghĩalý thuyết, giống như người lầm tưởng ngón tay là vật mà ngón tay đang chỉ (Lanka.196). 

Nhận thức của người phái Du già (Yogācārins) và bản chất của ý thức

Trong buổi ban đầuPhật giáo, nguyên tố nhân cách của ý thức (Pali viññāṇa, Skt vijñāna) được quy là ngang hàng với thức (viññāṇa), tâm (citta) (ý nghĩ) hoặc mạt-na (mano, Skt manas) (giác quan tinh thần) và được xem là có sáu loại: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức, mỗi một thức liên quan đến một giác quan riêng biệt. Tuy nhiên, phái Du già (Yogācāra) thì có thêm hai loại ý thức hoặc tâm thức (citta) khác được thêm vào, tổng cộng tất cả là tám. Như trong kinh Thắng Pháp (Abhidharma) buổi ban đầu, mỗi tâm thức (citta) được xem là bao gồm một chuỗi dự kiện ngắn ngủi, kèm với sự kết tập thích ứng của “trạng thái tinh thần” (Trims. v.3-8).

Phần thứ nhất thêm vào được cấu tạo vì mạt-na (manas) được xem như là một ý thức riêng rẽ, một tiến trình của tiềm thức. Tiềm thức sắp xếp những tài liệu từ sáu ý thức vào trong kinh nghiệm về thế giới đầy ý nghĩa, tùy theo các loại được sắp đặt sẵn. Nó chứa đựng căn bản cho những quyết định đúng sai và nhận thức sai lầm về thực tại, kể cả nghiệp tốt cũng như xấu được tạo thành bởi ham muốn kèm với sáu ý thức (Trims. vv.6-8).

Mạt-na (manas) và sáu ý thức là chỉ là tiêu biểu cho mặt trên của tinh thần, nó hoạt động và hướng đến các “đối tượng”. Nơi đây có tám dạng ý thức, tức sở y (āśraya), hoặc “căn bản” của phần còn lại; đây là gốc rễ chủ yếu. Hoạt động không có mục đích và không biết về đối tượng, nơi đây là cấp bậc nằm dưới ý thức tinh thần được gọi là a-lại-da-thức/ tạng thức (ālaya-vijñāna), “nhà kho chứa ý thức”. Asanga đặt nó ngang hàng với giới (dhātu) trong kinh Đại thừa - Thắng Pháp (Mahāyāna-abhidharma Sūtra) gọi “Địa hạt (dhātu) không có khởi đầu về thời gian, là một căn bản chung cho các pháp (dharmas)” (Ms. ch.2).
Khi một người làm những hành động, hoặc tạo nghiệp (karmas), thì trong vô thức đã có những dấu vết để lại : “những hạt giống” của những kết quả trong tương lai chìm dưới a-lại-da / tạng thức (ālaya), một chỗ chứa đựng tất cả những dấu vết được để lại. A-lại-da (ālaya) gồm có một chuỗi tâm thức (cittas), kèm với “những hạt giống” của nghiệp, trần cấu và ký ức. Qua thời gian, những hạt giống nầy tự sinh sôi nẩy nở, do đó có sự tiếp nối của một nhân cách xuyên qua cái chết và những giai đoạn của vô thức, khi bảy thức tích cực vắng mặt (Trims. v.16).

A-lại-da (ālaya) chứa đựng “những hạt giống” với bản chất trong sạch, nguồn gốc của những phấn đấu về tâm linh. Nó xuất hiện từ chỗ sâu thẳm của A-lại-da (ālaya), Param-ālaya hoặc “A-lại-da/ tạng thức vượt hẳn” (Lanka.272). Trong trường She-Lun, một trường đầu tiên của Trung Hoa thuộc phái Du già (Yogācāra), xem tạng thứcý thức thứ chín, “không bợn nhơ”. Nhận thức sâu thẳm của tạng thức (ālaya) được xem là vượt hẳn nhị nguyên của chủ thể và đối tượng, hiện hữu và không hiện hữu, và được biết đến như là Pháp giới (Dharma-dhātu, Dharma realm), hoặc “như như”, tương đương với sự trống không va Niết Bàn (Nibbāna). Đây là “trình độ” của tạng thức (ālaya) vượt hẳn ý thức cá nhân, và có thể được xem là một thực tại hoàn cầu nằm sẵn “bên trong” nơi mọi chúng sanh

Kinh Lăng Già (Lankāvātara Sūtra) (xem tr. 46-7, 38-9) xem hoạt động của bảy ý thứcliên quan đến a-lại-da thức (ālaya) như những ngọn sóng có liên hệ đến biển cả: chúng không tồn tại riêng rẽ, nhưng chỉ là những dao động của biển. Những dao động đó không ảnh hưởng gì đến chiều sâu yên tịnh của biển cả - giống như a-lại-da thức (ālaya).

A-lại-da thức hoạt động như một nền tảng của các ý thức chủ động, bằng cách phóng những ý thức nầy ra khỏi nó. Vì vậy, phái Du già (Yogācāra) xem nhận thức của một người về thế giới như là một sản phẩm của một tinh thần vô ý thức. Khái niệm nầy có liên hệ đến sự quan sát mà trong mọi trường hợp, chúng ta chỉ để ý đến những cái mà tinh thần chúng ta đang hòa hợp để nhận thấy, vật gì làm chúng ta ưa thích, cái gì làm chúng ta sợ hãi, gây hào hứng hoặc làm chúng ta chán ghét. Trong phạm vi nhận thức hợp lý, chúng ta chỉ nhận thấy “những cái nổi bật đã được chọn lọc”. Những gì chúng ta nhận thấy rõ ràng liên quan đến bản chất tự nhiên của chúng ta, tức là những sản phẩm của các hành động trước đó của chúng ta, trong số những vật khác (cf. tr. 40 và 57). Người phái Du già (Yogācārins) luôn nhấn mạnh về điều nầy đến nổi nhận thức được xem là một tiến trình của tưởng tượng, lúc mà tâm trí tạo ra những xây dựng của tinh thần được nhận thấy như là một thế giới.

Triết lý Du già (Yogācāra) giải thích cái “cơ học” của tiến trình cấu tạo như sau. Nằm trong a-lại-da thức (ālaya), những “hạt giống” nghiệp đã trưởng thànhảnh hưởng tinh tế của tập khí (vāsanā’s), hoặc “những ấn tượng” toả hương thơm được tạo thành bởi sự tham đắm in hằn nơi cấu trúc của tinh thần. “Những hạt giống” sau đó chính muồi dưới dạng một dòng kinh nghiệm gồm có mạt-na (manas) và sáu ý thức, mỗi thứ hướng đến một loại “đối tượng” của nó, một “tiêu biểu” (vijñapti) (Lanka. 44, và Trìms. v.2). Các mạt-na (manas) chia dòng kinh nghiệm thành một kinh nghiệm “chủ thể” và một kinh nghiệm “đối tượng”, hoặc “người nắm giữ” và “cái bị nắm giữ”. Dựa vào điều nầy, nó cấu tạo những dạng phân biệt hão huyền khác (vikalpa). Trong tiến trình nầy, ngôn ngữ giữ một vai trò khá quan trọng. Ngôn ngữ bị tràn ngập với sự phân biệt chủ thể, đối tượng và cung cấp những nhận thức dưới dạng “quan trọng” có thể bị tách rời khỏi dòng kinh nghiệm và bị đặt tên, như là những thực thể cố định (Lanka.226).
Trong khi tất cả được trải nghiệm qua ý thức và những việc đi đôi với nó, vì vậy, sự phân biệt sản xuất ra sự hư cấu mà những kinh nghiệm trải qua bởi một chủ thể “bên trong”, và chúng lại riêng rẽ với thế giới “bên ngoài”, cùng với những cảm giáccảm xúc “bên trong”. 

Đối với người phái Du già (Yogācāra), dòng kinh nghiệm là không phải “bên trong” cũng không phải “bên ngoài” – nó chỉ là nó. Một sự so sánh tương tự đại kháitrạng thái xem hình ảnh hai chiều trên màn vô tuyến truyền hình (cf. tr.84), nơi mà tinh thần nhận thức thế giới ở góc độ ba chiều và có thể nhận diện được nhân vật được miêu tả trong số các nhân vật. Sự so sánh tương tự nầy dĩ nhiên là không hoàn hảo. Nó chứa đựng một người xem truyền hình, trong khi đó phái Du già coi chính người xem là một màn ảnh truyền hình! Các mạt-na xem “chủ thể” như một cái ngã hoặc cái tôi thường hằng, một phần vì sự nhận biết lộn xộn của A-lại-da thức là nền tảng. Cái tôi - ảo giác là nguồn gốc của tham đắm liên quan đến các “đối tượng”, và những ham muốn khác, tạo ra những “hạt giống” nghiệp - được giữ lại trong A-lại-da thức cho đến khi chúng chính muồi nơi dòng kinh nghiệm ở tương lai. Vì thế vòng tròn sự sống và cuộc sống tiếp nối, với A-lại-da thức và mạt-na luôn tùy thuộc lẫn nhau.

Thế giới “chỉ là tư tưởng”

Nhận thức của phái Du già (Yogācāra) phần lớn nằm dưới dạng lý tưởng triết lý, phủ nhận thực tại của thế giới vật chấtquả quyết rằng thực tại chỉ thuộc về phần tinh thần. Đây dĩ nhiên nghe qua thì là thật lý tưởng: “Những thực thể trong tầm mắt không thể tìm thấy, thế giới bên ngoài chỉ là tâm thức (citta), được coi là vô số (của đối tượng); thân thể, tài sản và môi trường - những thứ nầy tôi cho là duy thức (citta-mātra)” (Lanka.154). Ý định của trường phái nầy không phải chỉ đề xuất một quan điểm triết lý, nhưng mà là phát triển một nhận thức để dễ dàng được giác ngộ. Như vậy, trường phát triển ra vô số lý thuyết thăm dò, nhằm kết nối lại những kinh nghiệm có được ngay lúc đó, và chối bỏ những lý thuyết vượt hẳn điều nầy để bàn luận về một “thế giới vật chất”. Nếu một thực tại hiện hữu nằm ngoài tinh thần , chúng ta sẽ không bao giờ kinh nghiệm được nó. 

“Thế giới” thật sự của chúng ta chỉ là “tư tưởng” hoặc là một “tiêu biểu” được sản xuất bởi ý thức. Kinh nghiệm ý thức có thể chứa đựng vài phản ảnh có dấu vết của những hiện hữu ngoài tinh thần, nhưng vì bị lệ thuộc nhiều nơi những cấu tạo tinh thần, mà điều nầy phải là trọng tâm của sự phân tách và thay đổi tâm linh

Để ủng hộ nhận thức nầy, trường kêu gọi việc tham thiền. Ở đây, sự chú tâm về một đối tượng có thể tạo ra một kinh nghiệm tinh thần như là một vòng ánh sáng muôn màu, mà với thời gian nó trở nên rõ ràngsống động hơn những đối tượng được thấy bằng mắt. Asanga tranh luận rằng, cho dù những hình ảnh nầy xuất hiện như thật, ngoài tư tưởng, chúng rõ ràng không là gì cả. Nếu điều nầy được áp dụng cho những kinh nghiệmtrạng thái yên tịnh, không bị lừa dối, thì bao nhiêu phần được áp dụng cho những kinh nghiệm thường ?

Asanga cũng tranh luận rằng một vài thiền sinh tiến bộ có thể thay đổi đất thành nước, như vậy những vật nầy không nằm ngoài phần tinh thần. Hơn nữa, những giấc mơ cho thấy rằng một người có thể có những ấn tượng dễ chịu hay không trong lúc thật sự không có một vật nào là thật để làm nguyên nhân cho nỗi vui hay nỗi buồn (Ms. ch, vv. 6-8, 4, và 27).

Nhận thức nầy không phải cho rằng tất cả chúng ta hoàn toàn sống ở những thế giới riêng biệt. Nét giống nhau của “những hạt giống” nghiệp nơi con người có nghĩa là “thế giới” của chúng ta có những điểm tương đồng, và những gì một chúng sinh làm có thể giúp đỡ hay làm hại một chúng sinh khác. Vasubandhu quả quyết rằng đây không phải là vì hành động của thân thể vật chất hay lời nói bên ngoài, nhưng vì những “tiêu biểu” tinh thần của một chúng sinhảnh hưởng đến tinh thần của những chúng sinh khác. Trong lúc mọi chúng sinh chỉ là những dòng hiện tượng tinh thần, và những hiện tượng nầy tương tác lẫn nhau (Vims. vv.18-20).

Ba bản tính

Trong khi phái Trung Quán (Mādhyamikas) nói đến những từ như “hai cấp bậc của chân lý”, nhận thức chánh của phái Du già (Yogācāra) là ba “bản chất” hiển nhiên– ba tự tính (svabhăva’s). Mỗi thứ là một nhận thức kinh nghiệm liên quan đến cả hai loại hiểu biết, thật và giả định, và một cấp bậc thực tại mà sự hiểu biết nầy có liên quan đến. Như ý định của phái Trung Quán (Mādhyamikas) là chuyển đổi một kinh nghiệm từ hư hỏng, tầm thường, đến một cấp bậc cao nhất của thực tạichân lý. Đối với phái Du già (Yogācārins), còn có một cấp bực trung gian của thực tại, dù phái Trung Quán (Mādhyamikas) xem cấp bậc nầy là một tổng hợp không thể có được giữa thực tạihão huyền.

Đầu tiên trong ba “bản tính” là vọng tưởng (parikalpita), cái được tạo thành bởi “sự cấu tạo” (tinh thần) hoặc “tưởng tượng”. Đây là cái được kiến trúc bằng sự phân biệt của chủ thể / đối tượng : ý nghĩa thông thường của thế gian về một bản ngã, con ngườimọi vật, và “những đối tượng” của tinh thần cũng như các pháp (dharmas) tinh thầnvật chất, đều bị xem một cách lầm lẫn là có thực chất thường hằng (“tự tính”). “Cấp bậc” thực tại của nó là số không: đây chỉ là một sự xuất hiện hão huyền. Như một loại “hiểu biết”, nó được chấp nhận bởi ảo tưởng, hấp thụ trong những hình dạng và chi tiết tổng quát (Lanka.67).

“Bản tính” thứ hai là y tha khởi (paratantra), “lệ thuộc khác”. Đây là cấp bậc của cái thực tại tương đối, trong dạng một dòng hiện tượng tinh thần hay thay đổi {ví dụ các pháp (dharmas) hiểu đúng nghĩa}, dựa vào một cái khác để xuất hiện như trong hệ thống của tám dạng tâm thức (citta) cùng với những trạng thái tinh thần ( Mv.ch.I, vv.9-10). Đây cũng nói đến sự hiểu biết tương đối để hiểu những hiện tượng nầy đều lệ thuộc vào nhau và vô thường. Đây không phải là cấp bậc cao nhất của thực tại, nhưng đây chính là tiến trình để tạo ra chủ thể và đối tượng đối lập nhau và vì vậy phóng ra bản chất “gầy dựng, cấu tạo”. Đây là “sự cấu tạo của cái không thật” (Tsn. v.4). 

“Bản chất” thứ ba cao nhất là viên thành (pariniṣpanna), “hoàn toàn trọn vẹn”. Đây là cấp bậc hoàn toàn chân thật, không còn đối lập giữa chủ thể/ đối tượng, ở đây sự hiểu biết được hoàn hảo vì sự hiểu biết trực tiếp với thế giới chỉ là một “tiêu biểu”. Trong khi sự “cấu tạo” như là nước trong ảo ảnh, và cái “lệ thuộc khác” chính là ảo ảnh, và cái “hoàn toàn trọn vẹn” như là sự thiếu nước trong ảo ảnh. Hoặc đầu tiên tưởng tượng như thấy những sợi tóc bởi những người bị đục nhân mắt, cái thứ hai giống như những thứ tạo ra ảo ảnh, và cái thứ ba giống như những vật được thấy rõ ràng bởi một người có mắt sáng.

Bởi vì biết rằng sự tưởng tượng được “cấu tạo” là không có “bản chất” thật, và ở trình độ những hiện tượng tương tác với “một cái khác” cũng là sự rỗng không của một “bản chất” thật cố hữu {như trong ý nghĩ của phái Trung Quán (Madhyamaka)}, cái “hoàn toàn trọn vẹn” là sự hiểu biết rõ ràng về cái “bản chất” rỗng không của tất cả những hiện tượng: Không. “Bản chất” nầy được gọi là như như, không thể nghĩ bàn vì thực tại nó là như thế. Như sự hiểu biết, biết là nó phải vượt xa hẳn ảo ảnh chủ thể / đối tượng, đây là cái như như mà nó biết. Như như là một bản chất của thực tại và ba “bản tính” chỉ là ba nhận thức khác nhau về nó, với những trình độ tương xứng (Tsn. vv.18-21). 

Trong khi phái Trung Quán (Mādhyamikas) thấy “không” chỉ là cho thấy sự vắng mặt của một tự tính nơi các hiện tượng, phái Du già (Yogācārins) thấy nó thật sự hiện hữu – trong dạng một bản chất không đối lập của sự “cấu tạo không thật”. Thực tại, hiểu đúng theo Trung đạo, là không có đối lập nhưng không phải là không hiện hữu. “Cấu tạo không thật”, “cái lệ thuộc khác” không phải hoàn toàn không thật, nhưng chỉ là hiện hữu “trong” cái rỗng không, không khác, không riêng rẽ và cũng không giống, cũng chỉ là những vật vô thường không riêng rẽ và không giống đối với sự vô thường (Mvkb. ch.I, vv.3 và 14). Nó có một “tự tính không thể tả được”, và chỉ hiểu được bởi các vị Phật (Vrtti. v.10).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 189164)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 44012)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25184)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30867)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21090)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38817)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27495)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31178)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33200)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24053)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 17030)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20576)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31973)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18130)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20633)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27088)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18096)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25655)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26744)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36697)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28108)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27368)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30406)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37184)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37345)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23920)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32334)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55202)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37021)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27647)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28369)
Công Phu Khuya
(Xem: 38007)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25481)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24179)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11304)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14606)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10677)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant