Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 12: Những bậc thánh thiện của Đại thừa - Con đường của Bồ Tát (Bodhisattva)

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8900)
Chương 12: Những bậc thánh thiện của Đại thừa - Con đường của Bồ Tát (Bodhisattva)

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

Chương 12
 NHỮNG BẬC THÁNH THIỆN

CỦA ĐẠI THỪA (MAHĀYĀNA)

Con đường của Bồ Tát (Bodhisattva)

Trí tuệ, từ biphương tiện thiện xảo

Đại thừa (Mahāyāna) chú trọng đến vị Bồ Tát (Bodhisattva), một người đang đi trên đường đến quả vị Phật hoàn hảo, mà nhiệm vụtừ bi giúp đỡ các chúng sinh trong khi đang phát triển trí tuệ của riêng mình. Với trí tuệ (prajñā) của riêng mình, vị nầy biết rằng không có “chúng sinh” nào, chỉ là những dòng luân lưu của các pháp (dharmas) rỗng không, nhưng với phương tiện thiện xảo giúp vị nầy hòa giải trí tuệ với lòng từ (karuṇā). Điều nầy thôi thúc vị nầy hoạt động để cứu vớt tất cả mọi chúng sinh, vì dù các chúng sinh là những dòng luân lưu rỗng không, nhưng họ vẫn cảm thấy “chính họ” là “những chúng sinh đau khổ” (Vc. sec. 3).

Trí tuệ trong nhiều trường hợp giúp đỡ cho lòng từ bi. Cuối cùng, nhờ vào đây để trở thành một vị Phật toàn trí, có thể giảng dạy và giúp đỡ các chúng sinh trong muôn vàn phương cách. Nó cũng bảo đảm là hành động từ bi thích hợp, có kết quả, và không phải là để tự lợi một cách lén lút. Hơn nữa, nó cũng cố cảm giác đoàn kết với mọi người, bởi sự thấu hiểu sâu sắc về “điểm tương đồng giữa các chúng sinh”: “ta” và “người” đều là rỗng không, không có sự khác biệt cuối cùng nào. 

Vị Bồ Tát (Bodhisattva) có thể thân cận với những kẻ làm sai trái, để “gần gũi” được họ, vì vị Bồ Tát (Bodhisattva) biết rằng những tính xấu nầy không cố hữu. Bất cứ sự kiêu hãnh tiềm tàng nào về những việc tốt đã làm đều bị kềm chế với ý nghĩ là tất cả “những công đức” của vị nầy cũng là rỗng không (Vc. sec. 8).
Từ bi cũng giúp cho trí tuệ cắt bỏ việc cho mình là trọng tâm, bằng cách khuyến khích một đời sống hy sinh cho kẻ khác và làm việc tích cực để giúp đỡ mọi ngườiKinh Hữu Học Kết Tập (Śikṣā-samuccaya) của Śāntideva (thế kỷ thứ bảy) tin rằng vị Bồ Tát cũng có thể làm một việc ác để bị quả báo địa ngục, nếu đây là vấn đề cần thiết để giúp đỡ một người khác và cho vị Bồ Tát cơ hội nhìn rõ mọi mặt của đời sống. Sự uyển chuyển lớn nơi Đại thừa (Mahāyāna) về những phương tiện thiện xảo của giáo điều được duy trì để nó khỏi trở thành một loại giấy phép liên kết với từ bi, thiền định thanh lọc, và niềm tin về nghiệp báo.

Những sự hoàn hảo
và cấp bậc của một vị Bồ Tát (Bodhisattva)

Con đường Bồ Tát (Bodhisattva-path) bắt đầu với sự xuất hiện của Bồ đề tâm (bodhi-citta), nguồn cảm hứng để tranh đấu tiến đến quả vị Phật và để giúp cho các chúng sinh đang đau khổ. Để cho sự kiện trọng yếu nầy xuất hiện, một người phải “xứng đáng” và có hiểu biết, muốn được như vậy cần phải thực tập về tâm linhđạo đức trong hiện tại và trong những đời sống đã qua, cùng với sự thành tâm, sự suy nghĩ về những nỗi khổ của mọi chúng sinh và sự cần thiết thành Phật. Năng lực của Bồ đề tâm (bodhi-citta) một khi xuất hiện có thể tạo nên rất nhiều “công đức” và làm giảm bớt những nghiệp xấu đã gieo trong quá khứ.

Sau sự xuất hiện của Bồ đề tâm (bodhi-citta), một người lập những hạnh nguyện Bồ Tát (praṇidhāna’s) với sự có mặt của những người đã lập hạnh và sống đúng với những lời nguyện đó, hoặc tuyên thệ trước các vị Phật và các vị Bồ Tát như những nhân chứng. Có những lời tuyên thệ chung thông thường: khắc phục vô số trần cấu, đạt quả vị Phật không thể so sánh, và cứu độ các chúng sinh; những người khác thì giúp đỡ các chúng sinh trong những trường hợp đặc biệt. Lời nguyện cứu độ tất cả các chúng sinh được xem là đáng tin, và không tham vọng quá mức, bởi các chúng sinh đều có “Phật tính” (Buddhaness), hoặc “Như lai tạng (Tathāgata-garbha), và không ích kỷ vì biết rằng các chúng sinh cũng không khác chi Bồ Tát.

Tuy nhiên, những lời tuyên thệ như vậy không nên coi thường. Chúng trở nên một sức mạnh tự trị đầy năng lực trong phần tâm thầnđưa tới sự “lầm lỗi” lớn nếu không giữ lời thệ nguyện. Thông thường, cần phải có từ ba cho đến ba mươi ba “hằng hà sa số kiếp” để những lời tuyên thệ nầy có thể thành tựu (xem tr. 33). Con đường Bồ Tát (Bodhisattva-path) thênh thang rộng lớn có lẽ đã được vạch ra từ các tác phẩm văn chương Bát Nhã (Perfection of Wisdom literature) ở buổi ban đầu, nhưng lại là sản phẩm của sự tuyên dương ca ngợi và triết lý kinh viện sau nầy.

Con đường Bồ Tát (Bodhisattva-path) được thực tập bằng cách phát triển một số “hoàn hảo” (pāramitās) và tiến mãi qua mười “cấp bậc” (bhūmis). Sáu “hoàn hảo” được diễn tả trong văn chương Bát Nhã (Perfection of Wisdom literature), dù bốn phần khác được thêm vào sau nầy để phối hợp với bốn “cấp bậc” sau cùng. Những cấp bậc được diễn tả trong các tác phẩm có lẻ là những sáng tác của Asanga, Kinh Bồ Tát địa (Bodhisattva-bhūmi), và kinh Thập địa (Daśa-bhūmika Sūtra). Những tác phẩm nầy nói về vị Bồ Tát Thánh Thiện (Ārya), cũng như Bát Chánh Đạo (Eightfold Path) đưa đến Bát Thánh Đạo (Holy Eightfold Path), và như vậy vị Bồ Tát thực tập những sự hoàn hảo ở mức độ tầm thường trước khi trở thành một vị Thánh Thiện. Sự thay đổi nầy, giống như sự nhập lưu (xem tr.68), xảy ra khi đạt đến “Kiến Đạo”, một mức độ phát triển tâm linh mà sự thấu hiểu sâu sắc nơi thiền định đem lại một kinh nghiệm đầu tiên đầy đủ về sự rỗng không.

Trong giai đoạn đầu, vị Bồ Tát Thánh Thiện tràn đầy niềm vui và niềm tin, và chăm chú vào việc phát triển sự bố thí (dāna) ở mức độ cao nhất. Ở đây việc bố thí là cho hết sức khỏe, lời dạy bảo, mạng sống, chân tay, kể cả vợ và gia đình, vì lợi ích của những người khác. “Công đức” từ những hành động như vậy được hồi hướng cho quả vị Phật tương lai của mình và mọi người. Śantideva khen ngợi sự hồi hướng “công đức” (pariṇāmanā) trong chương cuối của tác phẩm Nhập Bồ đề kinh (Bodhi-caryāvatāra) của ông. Śantideva nguyện là nhờ vào “công đức” viết bài thơ nầy, nhân loạichúng sinh khác có thể được giải thoát khỏi mọi hoạn nạn, và được phú cho đạo đức, niềm tin, trí tuệlòng từ bi. Trong một câu thơ, ông còn nguyện là những đau khổ của thế gian nên chính muồi nơi ông : nghĩa là không phải chỉ cho họ những “công đức” của mình, ông còn nguyện chịu luôn những nghiệp xấu của các kẻ khác. Trong giai đoạn thứ hai, vị Bồ Tát chú tâm vào sự hoàn hảo về đạo đức (sīla), cho đến khi hạnh kiểm của vị nầy trở nên trong sạch một cách tự nhiên. Ông cũng khuyến khích những người khác tránh sự vô đạo đức, vì nó đưa đến những nơi tái sinh không may mắn. Sự phát triển về thiền định của ông giúp ông thấy được các cõi trời và kính ngưỡng vô số các vị Phật. 

Trong giai đoạn thứ ba, vị Bồ Tát chú tâm vào việc hoàn hảo sự nhẫn nhục (kṣānti), được cũng cố bằng sự thực tập lòng tử tế và từ bi. Vị Bồ Tát phát triển khả năng chịu đựng rất lớn trong mọi nghịch cảnh, tránh sự nổi giận, và kiên nhẫn kiên trì trong việc tìm hiểu Pháp (Dharma) sâu thẳm. Trong giai đoạn thứ tư, sự hoàn hảo về tinh tấn (vīrya) được phát triển, nhờ vào sự tăng trưởng của nguyện vọng và lòng từ bi. Sự quan tâm cảnh giác hay chánh niệm (mindful alertness) được củng cố, và ở giai đoạn đặc biệt nầy thật là thích hợp để mà thực tập kỷ luật như các vị nam nữ tu sĩ

Trong giai đoạn thứ năm, sự chú tâm vào việc hoàn hảo thiền định (dhyāna). Những trạng thái nhập định được quán triệt, nhưng sự tái sinh nơi cõi trời không được chấp nhận. Trong Tứ Diệu Đế (Four Holy Truths) một khi hiểu rõ và có khả năng, thì việc chuyển đổi từ tục đế đến chân đế được phát triển. Những khả năng trong phạm vi toán học, y học, và thơ văn được trau dồi, như những phương tiện để giúp đỡ những người khác và để giảng dạy giáo pháp (Dharma). Trong giai đoạn thứ sáu, trí tuệ được hoàn hảo. Vị Bồ Tát (Bodhisattva) có được sự hiểu biết sâu sắc hoàn toàn về Lý duyên khởi (Conditioned Arising), vô ngã và không, và như vậy đạt đến một trình độ phát triển song song với vị A-la-hán (Arahat). Lúc sắp chết, vị nầy có thể rời vòng tròn tái sinh để vào Niết Bàn (Nirvāṇa), nhưng vì “lòng đại từ bi” của Đại thừa (Mahāyāna) không cho phép vị nầy làm như vậy. Bởi vì trí tuệ hoàn hảo và năm giai đoạn trước đó nhấn mạnh về sự hoàn hảo để trở nên siêu việt, đạt đến sự tràn đầy những hoàn hảo. Những hành động khó nhất được thực hiện mà không có chút gì ý thức về tự ngã hoặc hành động có mưu đồ. Thí dụ, khi cho vị nầy không thấy “người cho”, “món quà”, “người nhận” hoặc “kết quả”; bởi vì tất cả đều tan vào trong sự rỗng không ( Bản văn, 131).

Trong giai đoạn thứ bảy, vị Bồ Tát (Bodhisattva) đi xa hơn việc tái sinh tùy vào nghiệp lực, và trở thành một “Chúng sinh Vĩ đại” (Mahā-sattva), một chúng sinh cõi trời hay cứu vớt bằng những phương tiện thiện xảo từ nơi sự hoàn hảo của chính mình, vị nầy với thần thông, phóng ra hình ảnh của mình trong vô số thế giới để dạy dỗ và giúp đỡ các chúng sinh một cách thích hợp. Vì biết rằng luân hồi (saṃsāra) không khác chi Niết Bàn (Nirvāṇa), vị nầy đạt đến “vô trụ Niết Bàn” (xem tr. 113). Trong giai đoạn thứ tám, vị nầy đạt đến mức độ không thối chuyển, tức là lúc nầy vị nầy chắc chắn là mình sẽ đạt quả vị Phật. Sự hiểu biết của vị nầy có khả năng làm cho vị ấy xuất hiện bất cứ ở nơi nào trong vũ trụ mà vị ấy muốn, để dạy dỗ các chúng sinh với hình dạng giống họ. Vị nầy quán triệt đầy đủ sự hồi hướng “công đức” từ kho chứa rộng lớn của mình, như vậy các chúng sinh khi cầu nguyện vị nầy sẽ nhận được công đức như là một nâng đỡ tâm linh miễn phí. Trong giai đoạn thứ chín, vị Bồ Tát hoàn hảo sức mạnh (bala) của mình, dùng sự thấu hiểu sâu sắc rộng lớn của mình để hiểu về cá tính của chúng sinh và giúp đỡ, dạy dỗ họ với những phương thức chính xácthích hợp.

Trong giai đoạn thứ mười, vị Bồ Tát sống ở cung trời Tuṣita nơi Bồ Tát Maitreya đang cư ngụ (xem tr. 15). Vị nầy có được một thân thể rạng rỡ và được bao quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm các vị Bồ Tát nhỏ hơn. Sự chú tâm trong thiền định về sự toàn giác giống như viên Kim Cương, vị nầy có được sự hiểu biết hoàn hảo (jñāna). Các vị Phật sau đó đến để thọ ký cho vị nầy quả vị Phật hoàn hảo mà vị nầy sẽ đạt được trong giai đoạn Như lai (Tathāgata) sắp tới.
Việc đạt được quả vị Phật không xảy ra ở thế gian nầy, nhưng xảy ra nơi cung trời Akaniṣṭha, một cõi trời trong sạchthanh tịnh nhất (Lanka. 361). Nơi Phật giáo ở buổi ban đầu, cõi nầy được xem là cõi cao nhất trong năm cõi trời “thanh tịnh”, nơi mà chỉ có những vị không trở lại (Non-returners) được tái sinh ở đây và đạt kinh nghiệm Niết Bàn sau đó (xem tr.72). Mạng sống của các vị trời “cao tuổi nhất” (Pali Akaniṭṭha) là 16.000 kiếp. 

Trong Đại thừa (Mahāyāna), nơi nầy là nơi mà một vị Bồ Tát đạt Niết Bàn cuối cùng, quả vị Phật. Trong vài trường hợp, theo những bài giảng trước đó, những Vị Đại Bồ Tát (Great Beings) được xem là giống như những vị không trở lại, vì sự thấu hiểu sâu sắc của các vị không trở lại thường được xem là gần với sự hiểu biết sâu sắc của các vị A-la-hán (Arahats), nhưng họ vẫn tiếp tục tái sinh ở các cõi trời trước khi đạt được Niết BànTuy nhiên, Đại thừa (Mahāyāna) nhấn mạnh rằng các vị Đại Bồ Tát và các vị Phật có được trí tuệ rộng lớn hơn vị A-la-hán hoặc các vị thánh ở cấp bậc thấp hơn.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49777)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34656)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33468)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43958)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57114)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47593)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39442)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38494)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52982)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36625)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32260)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40512)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43515)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31480)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46735)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36229)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28726)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29269)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31920)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28863)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33400)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29171)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61026)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39810)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26708)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29701)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37416)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40123)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26868)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42703)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37302)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28316)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26416)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27198)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26208)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34709)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27833)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30497)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33319)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28588)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30100)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25503)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21865)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51348)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26758)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28642)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27735)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24376)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27491)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31977)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30219)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27736)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35487)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27477)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30044)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31804)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23051)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24208)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23054)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant