Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 27: Phụ lục: Các tác phẩm kinh điển

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9571)
Chương 27: Phụ lục: Các tác phẩm kinh điển

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

PHỤ LỤC:
CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN

Bộ Kinh Pali được gọi là Tipiṭaka, hoặc “Ba giỏ”, vì các bài kinh được ghi chép trên những lá cọ và được đựng trong ba giỏ khác nhau. Bộ Kinh gồm có Vinaya-piṭaka, hoặc “Giỏ Giới Luật (Tu viện)”, và Sutta-piṭaka, hoặc “Giỏ của những bài giảng”, và Abhidhamma-piṭaka, hoặc “Giỏ đựng những bài giảng xa hơn”. Nội dung của Giới Luật (6 bộ) và Bài Luận (Abhidhamma) (7 bài văn trong 13 bộ và một bản ấn hành) được thảo luận ở trang 224 ff. và 83 ff. Nội dung của Sutta-piṭaka như sau (con số bộ kinh là những số ấn bản của nhà in PTS):

Dīgha Nikāya, hoặc “Kết tập” gồm 34 (bài giảng) “Trường bộ kinh” (3 bộ) . 

Majjhina Nikāya, hoặc “Kết tập” của 150 (bài giảng) “Trung bộ kinh” (3 bộ).

Saṃyutta Nikāya, hoặc “Kết tập” của 7.762 (bài giảng) “Tương ưng bộ kinh” gồm 56 phần (Saṃyutta) tùy theo đề tài (5 bộ).

Aṅguttara Nikāya, hoặc “Kết tập” của 9.550 (bài giảng) “Tăng nhất bộ kinh” góp lại tùy theo số tiết mục có trên những danh sách (từ một đến mười một) mà các bài giảng nói đến (5 bộ).

Khuddaka Nikāya, gồm có 15 “Tiểu bộ kinh” trong 20 bộ. Đây gồm cả những bài giảng lặt vặt khác, phần lớn nằm trong thể thơ vần, chứa đựng những bài của Bộ Kinh lúc ban đầu và lúc sau nầy :

Khuddaka-pāṭha, một kết tập ngắn của “những bài đọc nho nhỏ” để học thuộc lòng.

Dhammapada, hoặc “những câu thơ về Pháp”, một kết tập phổ biến của 423 câu thơ súc tích về vấn đề đạo đức tự nhiên. Sự phổ biến của kinh nầy được phản ảnh trong vô số lần phiên dịch ra nhiều ngôn ngữ Âu châu.

 Udāna, 80 bài kinh (Suttas) ngắn lấy hứng khởi từ “những câu thơ được nâng cao”.

 Itivuttaka, hoặc “Được nói như thế nầy”: 112 bài kinh (Suttas) ngắn .

Sutta-nipāta, “Tập bộ kinh”, một kết tập kinh của 71 câu thơ, gồm có những tài liệu rất xưa như Aṭṭhakavagga.

 Vimāna-vatthu, “Thiên cung sự” nói về những tái sinhcõi trời.

 Peta-vatthu, “Ngạ quỷ sự” nói về những tái sinh ở cõi ma quỷ

Thera-gāthā, “Trưởng lão tăng kệ” nói về một số tăng sĩ đầu tiên làm thế nào đạt được giác ngộ.

Theri-gāthā, y như (h), nói về các vị ni.
 
Jātaka, một kết tập của 547 “Câu chuyện tiền thân” của Đức Phật, với mục đích đề ra những điểm đạo đức. Những câu chuyện được kể ra đầy đủ với lời bình, dựa vào những câu thơ kinh; tổng cộng có tất cả là 6 bộ. Trong khi kinh nầy một phần tương đối muộn màng, có thể trộn lẫn với vô số câu chuyện dân gian Ấn Độ, kinh nầy rất là phổ biến và thường được sử dụng trong những bài giảng.
 
Niddesa, “Bài bình luận” về một phần của (e).
 
Paṭisambhidā-magga, một phân tách kiểu bài luận (Abhidharma), về vài điểm trong học thuyết (2 bộ).

Apadāna, “Thí dụ kinh”, những câu chuyện tiền thân của các vị tăng và ni trong (h) và (i).
(n) Buddhavaṃsa, “Sử biên niên của các vị Phật”, nói về 24 vị Cổ Phật.
(o) Cariyā-piṭaka, “Giỏ hạnh kiểm”, về đức hạnh của Đức Phật Gotama trong những kiếp trước, xây dựng lần lần “những sự hoàn hảo” của một vị Bồ-tát (Bodhisatta).

Bộ kinh tiếng Hán được gọi là Ta-Ts’ang-ching, hoặc “Đại Tạng Kinh”. Bản ấn hành căn bản hiện đại, tiếp theo một hàng ngũ phi-truyền thống dựa vào sự hệ thống hóa của các học giả, như Taishō Daizōkyō, xuất bản ở Nhật từ năm 1924 đến năm 1929. Nó gồm có 55 bộ chứa đựng 2 184 bài văn, với 45 bộ phụ. Nội dung gồm có:

Những bài dịch của A hàm (Āgama) (tương đương vói bốn Nikāyas đầu của bộ Pali, và một phần của một phần năm) và Kinh tiền thân (Jātakas) (219 bài trong 4 bộ).

Những bài dịch của kinh Đại thừa (Mahāyāna Suttas), đôi khi gồm có vô số bản dịch của chung một bài. Những bài nầy được phân ra thành những đoạn như sau : Trí tuệ Bát Nhã (Perfection of Wisdom) (xem tr. 95ff.), Kinh Pháp Hoa (Lotus Sūtra) (xem tr. 92ff.), Kinh Hoa Nghiêm (Avvataṃsaka) (xem tr. 118 ff.), Kinh Bảo Tích (Ratnakūṭa) (một số bài gom lại, một vài bài rất xưa, như Kinh Đại Ca Diếp Hội (Kāśyapa-parivarta), Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahā-parinirvāṇa) (nói về những ngày cuối của Đức Phật , và nói về “Phật tính”), “Đại Hội”, và những bài kinh (Suttas) thông thường (phần lớn là Đại thừa) (627 bài văn của 13 bộ).

Những bài dịch về Mật tông (Tantras) (xem tr. 133 ff.); 572 bài trong 4 bộ).

Những bài dịch đa dạng về Luật ở buổi đầu (Vinayas) (kỷ luật tu viện) và vài bài phát hoạ về “kỷ luật” cho những vị Bồ-tát (Bodhisattvas) (86 bài văn trong 3 bộ).
Những bài dịch bình luận về A hàm (Āgama) và Kinh Đại thừa (Mahāyāna Sūtras) (31 bài trong 3 bộ).

Những bài dịch khác nhau về Luận (Abhidharmas) ở buổi ban đầu (xem tr. 83ff.) (28 bài trong 4 bộ).

Những bài dịch của Trung quán (Madhyamaka), Du già (Yogācāra) và những bài kinh khác, hoặc những “luận thuyết” (129 bài trong 3 bộ).

Những lời phê bình bằng tiếng Hán về các kinh (Suttas), Luật (Vinaya) và Luận (Śāstras) (12 bộ).

Những bài viết bằng tiếng Hán của các tông phái khác (5 bộ).

Lịch sửtiểu sử (95 bài trong 4 bộ).

Bách khoa tự điển, tự điển, những học thuyết phi-Phật giáo, (Ấn Độ giáo, Ma-ni giáo, và Nestorian Thiên Chúa giáo), và những bản liệt kê mục lục về những bộ kinh khác nhau bằng tiếng Hán (64 bài trong 3 bộ).

Như đã thấy, bộ kinh bằng tiếng Hán gồm nhiều loại tài liệu (như những lời bình luận, những bài luận và sử ký ) được xem như ngoài kinh điển trong truyền thống Pali Phật giáo Nam tông.

Bộ kinh bằng tiếng Tây Tạng gồm có bKa”gyur (ph.a. Kangyur) và bStan’gyur (ph.a. Tengyur). Cái trước là “Bản dịch về những lời dạy của Đức Phật”, và gồm có ấn bản sNar thang (ph.a. Narthang) của 98 bộ chứa đựng trên 600 bài văn được dịch ra từng nhóm như sau :

Vinaya (kỷ luật tu viện) (13 bộ).

Perfection of Wisdom (Trí tuệ Bát Nhã) (21 bộ).

Avataṃsaka (Hoa Nghiêm) (6 bộ).

Ratnakūṭa (Bảo Tích) (6 bộ).

Sūtra (Kinh) (ba phần tư là của Mahāyāna (Đại thừa); 270 bài trong 30 bộ).

Tantra (Mật tông) (trên 300 bài trong 22 bộ).

“Bản dịch của những bài luận” bStan’gyur , gồm có ấn bản Bắc kinh có 3 626 bài trong 224 bộ. Chúng được chia thành từng nhóm như sau :

Stotras (Kệ tán thán), hoặc thánh ca hoặc ca ngợi (64 bài trong 1 bộ).
những lời bình về Tantras (Mật tông) (3 055 bài trong 86 bộ).
Những lời bình và những bài luận khác: lời bình về Perfection of Wisdom (Kinh Trí tuệ Bát nhã) và Vinaya (Luật); những bài luận Madhyamaka (Trung quán) và Yogācāra (Du già), các tác phẩm Abhidharma (Luận), những câu chuyện và kịch, những bài luận về các đề tài như ý thức hệ (logic), y học, văn phạm và hóa học, và những tác phẩm linh tinh khác (567 bài trong 137 bộ).
Bản kinh bStan’gyur phần lớn gồm có các tác phẩm Ấn Độ, nhưng ngoài hai Bộ Kinh kể trên, còn có những tác phẩm văn học khổng lồ được sáng tác bởi những người Tây Tạng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19886)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29018)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20725)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19481)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30557)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36491)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33286)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35620)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21031)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21953)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25306)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25828)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31309)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18597)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25179)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23809)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28978)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20909)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31473)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25586)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29761)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22555)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25767)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23323)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25774)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23777)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40639)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23381)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22497)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22122)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23535)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16990)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23312)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24359)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41154)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19031)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20527)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27759)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38170)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34101)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36823)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24049)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29252)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60208)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27653)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68786)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24572)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24523)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22757)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26410)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26582)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20861)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20102)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27606)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46515)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53610)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23650)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21134)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25631)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29316)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant