Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

e. Niết bàn

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 12170)
e. Niết bàn

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN III – NHƠN QUẢ

CHƯƠNG III

PHẬT ĐÀ

E. NIẾT BÀN

Đức Phật bảo đại chúng rằng: Niết bàngiải thoát. Niết Bàn chẳng phải sắc mà Nhị thừa giải thoát vậy; sắc ấy là giải thoát của các Đức Phật. Giải thoát mà khi nào xa lìa tất cả ràng buộc, không còn sanh, không còn hòa hiệp là chẳng phải chơn giải thoát.

Chơn giải thoát tức Như Lai, vì tính thanh tịnh vậy. Như Lai với giải thoát không hai. Chơn giải thoát là như hư không; chơn giải thoátvô vi; chơn giải thoát là vô bệnh, chơn giải thoát là yên lặng; chơn giải thoátyên ổn; chơn giải thoát là không có bè bạn; chơn giải thoát là không lo sợ; chơn giải thoát là không buồn vui; chơn giải thoát là không hư hoại; chơn giải thoát là không ép bức; chơn giải thoát là không động pháp; chơn giải thoát là hiếm có; chơn giải thoát là chẳng khá lường; chơn giải thoáttối thượng; chơn giải thoátvô thượng; chơn giải thoáthằng thường; chơn giải thoát là kiên thiệt; chơn giải thoátvô biên; chơn giải thoát là sâu thẳm; chơn giải thoát là chẳng khá thấy; chơn giải thoát là chẳng khá lấy; chơn giải thoátthanh tịnh; chơn giải thoát là một vị; chơn giải thoátvắng lặng; chơn giải thoátbình đẳng; chơn giải thoát là biết đủ; chơn giải thoát là lặng thinh.

Kinh Niết Bàn

Có lời hỏi Đức Phật vào Niết bàn có phải cũng vô thường hay không?

Lời đáp: Niết bàn chẳng phải vô thường mà là thường trú vậy. Tại sao thế? Vì Thế gian có 5 nhơn:

Sanh nhơn: nghiệp phiền não và các hạt giống cỏ cây v.v… 

Hòa hiệp nhơn: là thiện với thiện tâm hòa hiệp, bất thiện với bất thiện tâm hòa hiệp, vô ký với vô ký tâm hòa hiệp vậy. 

Trụ nhơn: là vì ở dưới có trụ cột nên cái nhà chẳng bị sụp đổ 

Tăng trưởng nhơn: như nhờ nhơn duyên mặc áo, ăn uống v.v… nên khiến chúng sanh thêm lớn thân mạng; còn ngoại cảnh như các hạt giống chẳng bị lửa đốt, chẳng bị chim ăn mà được sanh trưởng vậy. 

Viễn nhơn: Như nhờ quốc vương, nên không có kẻ trộm cướp; cũng như mộng giống nương nhờ đất nước gió lữa v.v… mà được sanh lớn 

Nhưng bản thể Niết Bàn chẳng phải do năm nhơn nầy mà tạo thành, cho nên không thể là vô thường được.

Lại còn có hai nhơn nữa: thứ nhất là liễu nhơn: như đèn đuốc soi vào trong chỗ tối: thứ hai là tác nhơn: như thợ sứ làm thành đồ sứ vậy. Nhưng Niết Bàn chẳng phải nhờ tác nhơn tạo thành, mà chỉ nhờ liễu nhơn được hiển hiện vậy thôi. Cho nên liễu nhơn cũng gọi là 37 món đạo phẩmlục độ vậy.

Kinh Niết Bàn

Đức Phật bảo Ngài Ca Diếp: Này Ca Diếp! Các Thanh vănphàm phu, nghe nói Tam thừa không sai khác mà sanh lòng nghi. Nhưng Tam thừa thành tựu được Đạo quả, đồng là một Phật tánh, cho nên không có sai khác. Các chúng sanh đời sau xa mới biết tất cả Tam Thừa đồng một Phật tánh; như trừ bỏ được các quặng bẩn trong vàng mới thành vàng ròng: chúng sanh đến bực hết phiền não, mới biết là Tam Thừa đồng một Phật tánh. Nếu nói rằng Thanh Văn như Xá Lợi Phất được tiểu Niết Bàn, Duyên Giác được trung Niết Bàn, Bồ tát được đại Niết bàn ấy, là có lỗi. Tuy khai thị ra có Tam thừa đấy, nhưng khi biết Như Lai Bí mật Tạng thời các vị A La Hán cũng đều được đại Niết bàn. Cho nên đại Niết bàn là vui rốt ráo vậy, chớ đâu có sai khác.

Kinh Niết Bàn

Đức Phật bảo Tư Ích rằng: Ta chẳng bị sanh tử mà cũng chẳng được Niết bàn gì ráo.

Bấy giờ có 500 vị Tỳ kheo vừa nghe lời ấy đều từ chỗ ngồi đứng dậy một lượt mà thưa Phật rằng: Bạch Đưc Thế Tôn! Như vậy thì bọn chúng tôi luống tu phạm hạnh, nếu khôngNiết bàn thời tu Đạo cầu trí huệ làm chi?

Ngài Tư Ích Phạm Thiên thay Phật mà giải thích cho các Tỳ kheo rằng: Ví như có người si sợ hư không, bỏ hư không mà chạy, thì chạy đến chỗ nào cũng đều gặp hư không. Trái lại có một người tìm hư không rông chạy đông tây mà rằng: "Tôi tìm hư không". Người này chỉ biết cái tên hư không mà chẳng biết hư không là chi cả. Cũng thế kẻ cầu Niết Bàn, hằng qua lại trong Niết Bàn mà chẳng biết Niết bàn là chi, còn cho đó là phiền não; cũng bởi chỉ biết danh tự Niết Bàn mà chẳng biết bản thể Niết Bàn vậy.

Kinh Phạm Thiên Tư Ích Sở Vấn

Đức Phật bảo Ngài Đại Huệ rằng: Này Đại Huệ: Vô tánh thừa là hạng xiển đề vậy. Hạng này có hai thứ: một là vì bỏ tất cả căn lành; hai là phát khởi tâm nguyện thương tất cả chúng sanh, tận cùng tất cả cõi chúng sanh ấy vậy.

Thế nào là bỏ tất cả căn lành? Nghĩa là bài báng Bồ Tát Tạng rằng: "Thuyết nầy chẳng phải thuận với giải thoát". Chính khi thốt ra lời ấy căn lành đều bị dứt mất, thời không thể vào Niết Bàn được.

Còn thế nào là phát nguyện thương chúng sanh tận cùng các cõi chúng sanh? Trả lời: Nghĩa là lấy bản nguyệnphương tiện của Bồ tát khiến tất cả chúng sanh đều vào Niết Bàn. Nếu còn một chúng sanh chưa vào Niết Bàn, thì Ta cũng chưa vào Niết Bàn. Đấy cũng là thuộc một hạng xiển đề.

Ngài Đại Huệ hỏi rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tại sao kia rốt ráo chẳng vào Niết Bàn.

Đức Phật đáp: Một hạng Bồ Tát xiển đề kia biết xưa nay vẫn là Niết Bàn, cho nên rốt ráo chẳng vào Niết Bàn. Tại sao? Vì hạng xiển đề bỏ căn lành còn nhờ oai lực của Phật, hoặc có khi phát tâm bồ đề, sanh căn lành mà chứng Niết Bàn. Ấy là Phật không bỏ tất cả chúng sanh vậy.

Kinh Nhập Lăng Già

Ngài Duy Ma Cật hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Thưa Văn Thù Sư Lợi! Thứ gì gọi là hột giống Như Lai?

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Duy Ma Cật! Ba món độc tham, sân, và si, bốn món thấy điên đảo, năm món uẩn, sáu món nhập, bảy chỗ thức, tám món tà pháp, chín chỗ não hại, và mười điều ác cùng tất cả phiền não đều là hột giống Phật vậy.

Ở trong bùn phiền não mà sanh được hoa sen thanh tịnh. Có chúng sanh, Phật pháp mới hưng khởi. Nếu chẳng vào trong bể cả phiền não, thời có đâu được viên ngọc nhất thế trí.

Kinh Duy Ma Cật

Tâm chúng sanhNiết Bàn vậy, vì bản tánh thường thanh tịnh, như hư không chẳng khác.

Kinh Tâm Dịch Nhập Lăng Già

Tâm thể của chúng sanh, từ hồi nào đến giờ chẳng sanh chẳng diệt, tự tánh thanh tịnh.

Tâm ấy gọi là Như Lai tạng. Đã có chỗ gọi: đầy đủ vô lượng vô biên bất khả tư nghì, nghiệp thanh tịnh vô lượng vậy.

Kinh Chiếm Sát

Vì muốn Viên giác được thành tựu, nên Bồ Tát chẳng cùng pháp trói buộc mà cũng chẳng cần mở trói; sanh tử cũng chẳng nhàm. Niết Bàn cũng chẳng ưa; trì giới chẳng kính, phá giới cũng chẳng ghét, tu lâu chẳng trọng, mới học cũng chẳng khinh. Tại sao lạ thế? Ví tất cả là Viên giác vậy. Ví như hiểu rõ cảnh ánh sáng trước mặt, ánh sáng ấy trọn đầy mà không ghét ưa, vì thể của ánh sáng không hai vậy.

Không tu không thành tựu, Viên giác khắp soi vắng lặng không hai vậy. Chẳng tức cũng chẳng ly, không trói cũng không mở, tại sao?

chúng sanh đã thành Phật từ xưa nay rồi. Cho nên sanh tử với Niết Bàn chẳng khác gì giấc mộng khi hôm. Vì sanh tử với Niết Bàn cho là giấc mộng khi hôm, nên không khởi không diệt, không đi cũng không đến.

Kinh Viên Giác

Tất cả chướng ngại, tức là rốt ráo Viên giác vậy. Được mất đâu chẳng phải là giải thoát; thành bại đâu chẳng phải là Niết Bàn; trí ngu đâu chẳng phải là Bát nhã. Pháp trọn nên của Bồ tátngoại đạo đồng một bản thể bồ đề vậy. Cảnh giới vô minhchơn như không khác. Ba học giới, định, huệ, ba độc tham, sân, si đều là hạnh tốt vậy. Chúng sanhquốc độ đồng là một pháp tánh vậy. Địa ngụcthiên đàng, đều là tịnh độ. Hữu tánh và vô tánh, đều thành Phật đạo. Tất cả phiền não, rốt ráo giải thoát. Giác tánh mầu nhiệm cao tột, khắp cả mười phương xuất sanh Như Lai và tất cả pháp, mà thể tánh bình đẳng.

Kinh Viên Giác

Đức Phật bảo ông Phạm Chí tên Tu Bạt Đà La ở ngoài rừng Sa la rằng: Này Tu Bạt Đà La! Cõi phi tưởng phi phi tưởng, đều gọi là tưởng, mà Niết Bànvô tưởng vậy. Uất Đầu Lam Phất là bậc thầy của ngươi, có tiếng là lợi căn thông minh, mà chẳng biết quở trách cõi phi phi tưởng cho nên chịu ác thân, huống là các ngươi. Nếu chẳng dứt tất cả nhơn hữu lậu, thời không thể thấy được thật tướng; vì thật tướng là tướng vô tướng. Vô tướng ấy là tất cả pháp khôngtự tướng, không có tha tướng, và không có tướng chung tự tha. Không có pháp tướng, không có phi pháp tướng; không có hữu tướng, không có vô tướng; không có nhơn tướng, không có quả tướng. Mới gọi đó là tướng chơn thật, mới gọi đó là pháp giới, gọi đó là trí rốt ráo, gọi đó là đệ nhất nghĩa đế, và gọi đó là đệ nhất nghĩa không.

Kinh Niết Bàn

Đức Phật bảo ông Thiên Địa Đại Vương rằng: Này Đại vương! Tất cả pháp đều là Phật pháp vậy.

Thiên Địa hỏi Phật rằng: Nếu tất cả pháp đều là Phật pháp, thời tất cả chúng sanh cũng là Phật pháp?

Phật đáp: Nếu chẳng đem tâm vọng tưởng điên đảo, thời tất cả chúng sanh đều là Phật pháp. Này Đại vương! Nếu như thật mà thấy chúng sanhbình đẳng chơn như thật tế, mà thật tế ấy là pháp giới vậy. Mà pháp giới không thể chỉ rõ được, nên mới giả danhthật tế. Cho nên tùy theo thế tục mới có ngôn thuyết để nói phô cho rõ vậy thôi.

Kinh Bảo Tích

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22458)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16105)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15083)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 19095)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14530)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18700)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14495)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13681)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11913)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13337)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13728)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14014)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13317)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15094)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16243)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11156)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16519)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12012)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17688)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12936)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13767)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12933)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14929)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16471)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13219)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12166)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12864)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12988)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12853)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14265)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14192)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16580)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12433)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14454)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11407)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11105)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13257)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13958)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13252)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13069)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13570)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12812)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10310)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14049)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10282)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13774)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16340)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12057)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13049)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11718)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12744)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10888)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11059)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11019)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11962)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12865)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11153)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12679)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11415)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant