Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Phương pháp tu tập cơ bản

18 Tháng Hai 201100:00(Xem: 13027)
6. Phương pháp tu tập cơ bản

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

6. Phương pháp tu tập cơ bản

Công năng hoá độ nhân gian của Phật gíao là lấy Phật pháp để tịnh hoá nhân gian, nâng cao nhân phẩm làm cho chúng sinh sống đời này an lạc, đời sau cũng an lạc. Làm sao để đạt được đều này. Muốn như vậy chỉ có một phương thức duy nhấtthực hành tu tập theo giáo lýĐức Phật đã dạy.

Phương pháp tu tập căn bản không ngoài phước nghiệp, định nghiệptuệ nghiệp.

Phước nghiệpbố thí, trì giới. Định nghiệpthiền định. Tuệ nghiệp là chỉ cho trí tuệ. Công đức của việc tu tập bố thí, trì giới sẽ được phước báo nhân thiên rồi từ đó có thể thành tựu Phật quả. Nên Phật là người đã viên mãn cả phước lẫn trí. Công đức của việc tu tập thiền định làm cho đời sống hiện tại của chúng ta có được cuộc sống mạnh khoẻ về sinh lý và thăng bằng trong tâm lý, đời sau sinh vào cõi trời Thiền Thiên, Phạm Thiên tiến đến thành tựu Phật quả. Cảnh giới thiền định của Phật là cao nhất nên Chư Phật có công lực „thường trụ tại định, vô hữu bất định thời“. Có được thâm định đại định thì mới có được đại từ biđại trí tuệ. Công đức tu tập trí tuệ làm cho cuộc sống thực tại biết sống thiểu dục tri túc, ít phiền não lìa khổ được giải thoát. Cuối cùng dùng đại trí thâm tuệ độ vô lượng chúng sinh.

6.1. Tu bố thí như thế nào

Con người vì muốn bảo đảm cuộc sống và giữ cho sinh mạng được an toàn nên luôn có quan niệm cùng thói quen để dành tích trữ. Phương pháp để dành có hai là hữu hạn và vô hạn. Hữu hạn thì đem gởi vào ngân hàng còn vô hạn là đem tiền tài gởi vào trong xã hội. Hữu hạn để dành là nhằm bảo đảm cho cuộc sống của cá nhângia đình. Còn vô hạn để dànhbảo đảm cho cuộc sống của toàn xã hội. Cá nhân luôn gắn chặt với tập thể nên cả hai loại để dành này đều có lợi ích cho bản thân. Để dành về mặt thời gian cũng có hai cách là để dành cho đời này và để dành cho cuộc sống dài lâu ở tương lai. Để dành cho đời này là nhằm cho cuộc sống hiện tại của chúng ta, còn để dành dài lâu là nhằm cho cuộc sống nhiều đời ở tương lai. Gởi tiền ở ngân hàng, hay làm việc phúc lợi cho xã hội chúng ta có thể nhìn thấy được nên nó thuộc về sự để dành cho lợi ích của cuộc sống hiện tại. Hoằng dương Phật pháp, hộ trì Tam Bảo, dùng Phật pháp để cứu giúp nhân tâm là sự để dành vô tận, vì một truyền mười, mười truyền trăm, cứ vậy nhân lên đưa ánh đạo vào trong cuộc đời, làm lợi ích cho hiện tại và cho tương lai nhiều đời sau nữa. Nên chỉ cần Phật pháp truyền đến đâu và chừng nào Phật pháp còn lưu bố thì công đức cũng theo đó được lưu giữ nên đó là sự để dành vĩnh hằng nhất. Chúng ta phải nổ lực để dành „chất cát thành tháp“, „nước chảy đá mòn“, „tích thiểu thành đa“. Mỗi ngày một chút dùng vật lực, trí lực, thể lựctâm lực không ngừng tu tập công đức bố thí. Bố thí vì cuộc sống trước mắt, lại càng bố thí vì cuộc sống tương lai, công đức bố thí rất dễ tu tập tuỳ sức, tuỳ tâm. Bố thí giúp người nghèo, người bệnh công đức đã lớn. Hộ trì Phật pháp, bồi dưỡng Tăng tài hoằng dương Phật pháp công đức càng lớn hơn nhiều.

6.2. Tu trì giới như thế nào

Mục đích của trì giớisửa sai thành tốt. Sửa sai là không tạo các nghiệp ác nên đạt được quả ly khổ. Xây dựng cái tốt là nổ lực làm các nghiệp thiện nên đạt được quả hạnh phúc. Nếu cầu lìa khổ được vui mà không dốc sức để sửa sai thành tốt thì không hợp với quy luật nhân quả.

Phật giáo dạy người giữ giới nội dung có hai tầng thứ một là tự lợi, tự bảo như ngũ giới hai là làm lợi lạc chúng sinh như tứ chính cần.

Không sát sinh chủ yếu là không giết người.

Không trộm cắp là không lấy vật phi pháp không nhận của phi nghĩa.

Không tà dâm chủ yếu là không làm mất trật tự xã hội, không hợp luân lý, không phá hoại gia phong, không phung phí sức khoẻ.

Không vọng ngữ chủ yếu là không dùng lời nói để làm hại kẻ khác.

Không uống rượu gồm cả chất gây nghiện vì sẽ đánh mất năng lực tự chế của bản thân dẫn đến việc phá giới phạm tội.

Bốn loại tinh tấntứ chính cần khuyến hoá người bỏ các việc ác, làm các việc lành. „Chư ác mạt tác, chúng thiện phụng hành“. Chấm dứt các đều ác đã làm, ngăn ngừa các đều ác chưa làm, tăng trưởng các điều thiện đã có, phát sinh những điều thiện chưa sinh. Nổ lực không giải đãi thực hiện bốn pháp tinh tấn này. Không làm các điều ác, ngăn trừ các điều ác chưa sinh là bạt khổ cho chúng sinh. Tăng trưởng các điều thiện đã làm, phát khởi những điều thiện chưa sinh là đem hạnh phúc ban vui cho chúng sinh. Bạt khổ ban vui là dùng đại bi tâm hành Bồ-tát-hạnh, lấy bố thí để cảm hoá rồi hướng dẫn chúng sinh tu tập tứ chính cần.

6.3. Tu thiền định như thế nào

Ý nghĩa của thiền định là tâm vô nhị niệm. Khi mới bắt đầu cần có phương pháp. Phương pháp sẽ giúp tâm niệm từ trạng thái tán loạn đi đến trạng thái tập trung, từ tập trung đi đến trạng thái thống nhất, đạt được trạng thái thống nhất tứcđạt được định. Nhưng trạng thái thống nhất cũng có nhiều tầng thứ khác nhau : từ thân tâm thống nhất đến nội tâmngoại cảnh thống nhất, tiến hơn là niệm trước niệm sau thống nhất. Muốn đạt đến chỗ niệm trước và niệm sau thống nhất cần phải trải qua quá trình niệm trước và niệm sau nối nhau như mắt xích, một niệm gắn một niệm, niệm niệm đồng nhất niệm rồi sau đó mới đến chỗ triệt tiêu khoảng cách giữa niệm trước và niệm sau chỉ còn lại sự tồn tại của nhất niệm. Lúc đó tức là: „chỉ ư nhất niệm“ tên gọi là định. Nếu đạt đến chỗ nhất niệm cũng không còn tức là tức định tức huệ.

Khi mới tu thiền có thể có nhiều phương pháp, lễ bái, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, kinh hành... đều nhằm mục đích an tâm, thanh tâmtịnh tâm. tất cả phương pháp tu tập để làm cho thân tâm thăng bằng đều là công hiệu của định. Nếu không có bậc thiền sư chỉ dạy thời có thể dựa vào những phương pháp trên để tu tập thiền định vì đều đúng với giáo lý Phật nhưng đây là phương pháp tán tâm tu định.

Nếu gặp được bậc Thầy có kinh nghiệm thiền định lại có chính tri, chính kiến của Phật pháp thì phải theo để tu học phương pháp chuyên tâm tu định đó là pháp thiền quán, pháp chỉ quán hay gọi là pháp tham thiền.

Phương pháp thiền quán không thể lìa ba nguyên tắc là tư thế điều thân, điều tức hơi thở và điều tâm chuyên chú. Yêu cầu căn bản là thả lỏng cơ bắp của thân thể đến thần kinh. Tư thế chính xác là nguyên tắc đoan chính nhẹ nhàng trong cả bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi. Hít thở chính xác trên nguyên tắc giữ nhịp thở theo tốc độ bình thường. Chuyên chú chính xác là giữ nguyên tắc làm đúng phương pháp không để ý đến việc đạt được điều gì hay không. Nếu móng tâm mong muốn mau đạt được điều gì thì rất dễ đi lạc vào ma cảnh. Cần phảitâm lý chuẩn bị là sẽ „ gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma” thì mới an toàn. Ý nghĩa của „gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma” là bất luận có được cảm giác vui hay cảnh tượng lo sợ đều phải xem đó là huyễn cảnh huyễn giác. Nếu không khi gặp ác cảnh sẽ thối tâm, thậm chí còn huỷ báng Tam Bảo vì cho rằng tu tập mà không được quả báo tốt. Còn nếu gặp thiện cảnh thì sinh tâm kiêu mạn cho rằng đã được thần thông chứng được Thánh quả thành Phật rồi. Thật đáng thương thay cho tâm niệm sai lạc này.

6.4. Lễ báitụng niệm

Lễ bái liên quan đến chấp tay và cách lễ như thế nào cho đúng phương pháp. Vì sao lễ bái? người mới vào đạo có hữu cầu lễ báihữu tướng lễ bái. Cầu bình an, cầu trí huệ, cầu hạnh phúc là tâm thái bình thường. Hữu tướng lễ bái tức là có đối tượng, có mục đích trước Phật, Bồ tát Thánh tượng hay kinh điển mỗi ngày đúng giờ, đủ số lễ lạy, cầu tiêu nghiệp chướng, trừ phiền não. Tu tập lâu ngày tự sẽ hiểu rằng vô cầu, vô tướng mới là mục tiêu cứu cánh nên mỗi ngày lễ lạy như việc bình thường.

Đọc tụng kinh Phật phải xem thời gian, các bộ kinh thường đọc tụngTâm kinh, Phổ Môn Phẩm, kinh A Di Đà, kinh Kim Cang, kinh Dược Sư, kinh Địa Tạng, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm. Tụng kinhthể không cần chuông mõ hoặc dùng chuông mõ. Tốt nhất là nên chuyên nhất tụng một bộ kinh nhất địnhphát tâm trong khoảng thời gian nào đó đọc tụng bao nhiêu biến, không nên nay đọc kinh này, mai đọc kinh khác, khi tụng kinh cần đọc rõ âm từng chữ mà chưa cần phải hiểu rõ nghĩa của từng chữ trong kinh. Chỉ khi xem kinh mới cần hiễu rõ nghĩa. Ngoài những kinh thường tụng trên nếu có khả năng có thể xem thêm những kinh luận khác như : kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác, kinh Thắng Man, kinh Duy Ma, kinh Lăng Già, kinh Giải Thâm Mật, kinh Đại Bát Nhã, kinh Tạp A Hàm, kinh Tăng Nhất A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Trường A Hàm, luận Đại Thừa Khởi Tín, luận Bảo Tính, luận Câu Xá, luận Du Già Sư Địa, Trung luận, luận Đại Trí Độ, Lục Tổ Đàn Kinh

6.5. Niệm Phậttrì chú

Niệm Phậttrì chú vốn là một trong những phương pháp tu định. Sau khi Tịnh Độ tôngMật tông trở thành những tông phái độc lập mới có sự tách biệt nếu đứng trên lập trường chỉnh thể của Phật giáo mà nhìn thì cả ba hổ tương với nhau. Niệm Phật là chỉ chung cho niệm tất cả danh hiệu của các đức Phật, chư vị Bồ Tát chứ không phải chỉ riêng cho niệm Phật A Di Đà thôi. Niệm Phật có hai cách là tán tâm niệm Phậtchuyên tâm niệm Phật. Tán tâm niệm Phật là bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào cũng có thể niệm, niệm ra tiếng hoặc niệm thầm trong tâm, thậm chí vừa nói chuyện vừa vẫn có thể niệm Phật. Chuyên tâm niệm tức là có thời khoá nhất định, bằng các phương cách như liên tục niệm, cao giọng niệm hoặc tự thinh kỳ niệm. Ấn Quang Đại Sư khuyên nên dùng phương thức “số số niệm ” chứ không phải là “ký số niệm ”. Ký số niệm tức là dùng tràng hạt để tính số niệm Phật. Số số niệm là niệm từ một đến mười xong lại tính lại từ một. Nếu được như thế sẽ dễ đạt đến chuyên tâm hơn. Nếu muốn niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn phải dùng phương pháp chuyên tâm niệm thì mới đạt được.

Nhiều người cho rằng hể trì chú tức là tu mật pháp, thật ra không phải như vậy vì mật pháp chính quy là phải do Thượng Sư truyền trao cho, phải có pháp tu đúng nghi quỷ, còn trì chú thông thường thì cũng giống như trì danh niệm Phật vậy. Pháp trì chú là miệng đọc, tai nghe, tâm tư duy, thân khẩu ý tam nghiệp tương ưng thì trì chú mới có lực được, đó cũng chính là một dạng của định. Nếu tán tâm trì chú thì cũng có công đứccảm ứng, còn trì chú gì là tuỳ nhân duyên của mỗi người. Các chú thường trì tụng là chú Đại Bi, chú Quan Âm, chú Chuẩn Đề, chú Kiết tường, chú Dược Sư, chú Địa Tạng, chú Vãng Sinh, chú Lăng Nghiêm. Có thể dùng cách tính số biến chú đã trì, cũng có thể dùng cách tính thời gian trì chú.

6.6. Tu trí tuệ như thế nào

Trong các kinh điển cả Bắc lẫn Nam Tông có sự khác biệt khi nói về trí tuệ. Trí có thế gian tríxuất thế gian trí. Trí thức cùng sự thông minh tài trí của thế gian đều lấy ngã làm trung tâm bất kể là tiểu ngã của cá nhân hay ngã lớn của tập thể đều không thể thoát khỏi phiền não ngã chấp nên gọi là thế gian hữu lậu trí. Chỉ có những vận hành của tâm lý hay tinh thần vượt khỏi trung tâm tự ngã mới là xuất thế gian vô lậu trí.

Khai ngộ là sự hiển hiện công năng của vô lậu trí. Khi khai ngộ thì đoạn trừ phiền não của bản thân, rời chấp trước. Sau khi khai ngộ thì thí pháp vũ, tế khổ nạn của chúng sinh. Tự độ, độ người lại tự trí, tự giác, vô ngã cũng vô chúng sinh. Tuệ có văn, tư, tu tam tuệ.

Văn tuệdựa vào việc thính pháp nghe kinh, duyệt đọc kinh điển để hiểu rõ nguyên tắc tu tậpnghĩa lý trong Phật pháp.

Tư tuệdựa vào tuệ giải những điều đã nghe đã học, như pháp tu hành, một mặt vẫn y kinh giáo, mặt khác từ trong quá trình tu tậpđạt được sự thể nghiệm.

• Tu tuệ là tiến sâu hơn một bước nữa từ nền tảng tư tuệ tuy không y kinh điển mà đại dụng vẫn hiện tiền, lại vẫn không tương phản với kinh giáo.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12513)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10413)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12366)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11671)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28839)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12070)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13025)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11471)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12392)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17472)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53109)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35514)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21429)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10703)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19276)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12444)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26070)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13336)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14409)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16105)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16870)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17609)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13154)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12552)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11636)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11639)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14523)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20500)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19019)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19622)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18694)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12216)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12341)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13882)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15057)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15056)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14010)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15542)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11416)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17214)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14999)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20248)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14637)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13885)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11745)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15082)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13015)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22914)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14577)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11694)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13186)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16911)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18367)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11957)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11517)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15871)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18936)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18447)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant