Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Phương pháp tu tập cơ bản

18 Tháng Hai 201100:00(Xem: 13050)
6. Phương pháp tu tập cơ bản

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

6. Phương pháp tu tập cơ bản

Công năng hoá độ nhân gian của Phật gíao là lấy Phật pháp để tịnh hoá nhân gian, nâng cao nhân phẩm làm cho chúng sinh sống đời này an lạc, đời sau cũng an lạc. Làm sao để đạt được đều này. Muốn như vậy chỉ có một phương thức duy nhấtthực hành tu tập theo giáo lýĐức Phật đã dạy.

Phương pháp tu tập căn bản không ngoài phước nghiệp, định nghiệptuệ nghiệp.

Phước nghiệpbố thí, trì giới. Định nghiệpthiền định. Tuệ nghiệp là chỉ cho trí tuệ. Công đức của việc tu tập bố thí, trì giới sẽ được phước báo nhân thiên rồi từ đó có thể thành tựu Phật quả. Nên Phật là người đã viên mãn cả phước lẫn trí. Công đức của việc tu tập thiền định làm cho đời sống hiện tại của chúng ta có được cuộc sống mạnh khoẻ về sinh lý và thăng bằng trong tâm lý, đời sau sinh vào cõi trời Thiền Thiên, Phạm Thiên tiến đến thành tựu Phật quả. Cảnh giới thiền định của Phật là cao nhất nên Chư Phật có công lực „thường trụ tại định, vô hữu bất định thời“. Có được thâm định đại định thì mới có được đại từ biđại trí tuệ. Công đức tu tập trí tuệ làm cho cuộc sống thực tại biết sống thiểu dục tri túc, ít phiền não lìa khổ được giải thoát. Cuối cùng dùng đại trí thâm tuệ độ vô lượng chúng sinh.

6.1. Tu bố thí như thế nào

Con người vì muốn bảo đảm cuộc sống và giữ cho sinh mạng được an toàn nên luôn có quan niệm cùng thói quen để dành tích trữ. Phương pháp để dành có hai là hữu hạn và vô hạn. Hữu hạn thì đem gởi vào ngân hàng còn vô hạn là đem tiền tài gởi vào trong xã hội. Hữu hạn để dành là nhằm bảo đảm cho cuộc sống của cá nhângia đình. Còn vô hạn để dànhbảo đảm cho cuộc sống của toàn xã hội. Cá nhân luôn gắn chặt với tập thể nên cả hai loại để dành này đều có lợi ích cho bản thân. Để dành về mặt thời gian cũng có hai cách là để dành cho đời này và để dành cho cuộc sống dài lâu ở tương lai. Để dành cho đời này là nhằm cho cuộc sống hiện tại của chúng ta, còn để dành dài lâu là nhằm cho cuộc sống nhiều đời ở tương lai. Gởi tiền ở ngân hàng, hay làm việc phúc lợi cho xã hội chúng ta có thể nhìn thấy được nên nó thuộc về sự để dành cho lợi ích của cuộc sống hiện tại. Hoằng dương Phật pháp, hộ trì Tam Bảo, dùng Phật pháp để cứu giúp nhân tâm là sự để dành vô tận, vì một truyền mười, mười truyền trăm, cứ vậy nhân lên đưa ánh đạo vào trong cuộc đời, làm lợi ích cho hiện tại và cho tương lai nhiều đời sau nữa. Nên chỉ cần Phật pháp truyền đến đâu và chừng nào Phật pháp còn lưu bố thì công đức cũng theo đó được lưu giữ nên đó là sự để dành vĩnh hằng nhất. Chúng ta phải nổ lực để dành „chất cát thành tháp“, „nước chảy đá mòn“, „tích thiểu thành đa“. Mỗi ngày một chút dùng vật lực, trí lực, thể lựctâm lực không ngừng tu tập công đức bố thí. Bố thí vì cuộc sống trước mắt, lại càng bố thí vì cuộc sống tương lai, công đức bố thí rất dễ tu tập tuỳ sức, tuỳ tâm. Bố thí giúp người nghèo, người bệnh công đức đã lớn. Hộ trì Phật pháp, bồi dưỡng Tăng tài hoằng dương Phật pháp công đức càng lớn hơn nhiều.

6.2. Tu trì giới như thế nào

Mục đích của trì giớisửa sai thành tốt. Sửa sai là không tạo các nghiệp ác nên đạt được quả ly khổ. Xây dựng cái tốt là nổ lực làm các nghiệp thiện nên đạt được quả hạnh phúc. Nếu cầu lìa khổ được vui mà không dốc sức để sửa sai thành tốt thì không hợp với quy luật nhân quả.

Phật giáo dạy người giữ giới nội dung có hai tầng thứ một là tự lợi, tự bảo như ngũ giới hai là làm lợi lạc chúng sinh như tứ chính cần.

Không sát sinh chủ yếu là không giết người.

Không trộm cắp là không lấy vật phi pháp không nhận của phi nghĩa.

Không tà dâm chủ yếu là không làm mất trật tự xã hội, không hợp luân lý, không phá hoại gia phong, không phung phí sức khoẻ.

Không vọng ngữ chủ yếu là không dùng lời nói để làm hại kẻ khác.

Không uống rượu gồm cả chất gây nghiện vì sẽ đánh mất năng lực tự chế của bản thân dẫn đến việc phá giới phạm tội.

Bốn loại tinh tấntứ chính cần khuyến hoá người bỏ các việc ác, làm các việc lành. „Chư ác mạt tác, chúng thiện phụng hành“. Chấm dứt các đều ác đã làm, ngăn ngừa các đều ác chưa làm, tăng trưởng các điều thiện đã có, phát sinh những điều thiện chưa sinh. Nổ lực không giải đãi thực hiện bốn pháp tinh tấn này. Không làm các điều ác, ngăn trừ các điều ác chưa sinh là bạt khổ cho chúng sinh. Tăng trưởng các điều thiện đã làm, phát khởi những điều thiện chưa sinh là đem hạnh phúc ban vui cho chúng sinh. Bạt khổ ban vui là dùng đại bi tâm hành Bồ-tát-hạnh, lấy bố thí để cảm hoá rồi hướng dẫn chúng sinh tu tập tứ chính cần.

6.3. Tu thiền định như thế nào

Ý nghĩa của thiền định là tâm vô nhị niệm. Khi mới bắt đầu cần có phương pháp. Phương pháp sẽ giúp tâm niệm từ trạng thái tán loạn đi đến trạng thái tập trung, từ tập trung đi đến trạng thái thống nhất, đạt được trạng thái thống nhất tứcđạt được định. Nhưng trạng thái thống nhất cũng có nhiều tầng thứ khác nhau : từ thân tâm thống nhất đến nội tâmngoại cảnh thống nhất, tiến hơn là niệm trước niệm sau thống nhất. Muốn đạt đến chỗ niệm trước và niệm sau thống nhất cần phải trải qua quá trình niệm trước và niệm sau nối nhau như mắt xích, một niệm gắn một niệm, niệm niệm đồng nhất niệm rồi sau đó mới đến chỗ triệt tiêu khoảng cách giữa niệm trước và niệm sau chỉ còn lại sự tồn tại của nhất niệm. Lúc đó tức là: „chỉ ư nhất niệm“ tên gọi là định. Nếu đạt đến chỗ nhất niệm cũng không còn tức là tức định tức huệ.

Khi mới tu thiền có thể có nhiều phương pháp, lễ bái, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, kinh hành... đều nhằm mục đích an tâm, thanh tâmtịnh tâm. tất cả phương pháp tu tập để làm cho thân tâm thăng bằng đều là công hiệu của định. Nếu không có bậc thiền sư chỉ dạy thời có thể dựa vào những phương pháp trên để tu tập thiền định vì đều đúng với giáo lý Phật nhưng đây là phương pháp tán tâm tu định.

Nếu gặp được bậc Thầy có kinh nghiệm thiền định lại có chính tri, chính kiến của Phật pháp thì phải theo để tu học phương pháp chuyên tâm tu định đó là pháp thiền quán, pháp chỉ quán hay gọi là pháp tham thiền.

Phương pháp thiền quán không thể lìa ba nguyên tắc là tư thế điều thân, điều tức hơi thở và điều tâm chuyên chú. Yêu cầu căn bản là thả lỏng cơ bắp của thân thể đến thần kinh. Tư thế chính xác là nguyên tắc đoan chính nhẹ nhàng trong cả bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi. Hít thở chính xác trên nguyên tắc giữ nhịp thở theo tốc độ bình thường. Chuyên chú chính xác là giữ nguyên tắc làm đúng phương pháp không để ý đến việc đạt được điều gì hay không. Nếu móng tâm mong muốn mau đạt được điều gì thì rất dễ đi lạc vào ma cảnh. Cần phảitâm lý chuẩn bị là sẽ „ gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma” thì mới an toàn. Ý nghĩa của „gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma” là bất luận có được cảm giác vui hay cảnh tượng lo sợ đều phải xem đó là huyễn cảnh huyễn giác. Nếu không khi gặp ác cảnh sẽ thối tâm, thậm chí còn huỷ báng Tam Bảo vì cho rằng tu tập mà không được quả báo tốt. Còn nếu gặp thiện cảnh thì sinh tâm kiêu mạn cho rằng đã được thần thông chứng được Thánh quả thành Phật rồi. Thật đáng thương thay cho tâm niệm sai lạc này.

6.4. Lễ báitụng niệm

Lễ bái liên quan đến chấp tay và cách lễ như thế nào cho đúng phương pháp. Vì sao lễ bái? người mới vào đạo có hữu cầu lễ báihữu tướng lễ bái. Cầu bình an, cầu trí huệ, cầu hạnh phúc là tâm thái bình thường. Hữu tướng lễ bái tức là có đối tượng, có mục đích trước Phật, Bồ tát Thánh tượng hay kinh điển mỗi ngày đúng giờ, đủ số lễ lạy, cầu tiêu nghiệp chướng, trừ phiền não. Tu tập lâu ngày tự sẽ hiểu rằng vô cầu, vô tướng mới là mục tiêu cứu cánh nên mỗi ngày lễ lạy như việc bình thường.

Đọc tụng kinh Phật phải xem thời gian, các bộ kinh thường đọc tụngTâm kinh, Phổ Môn Phẩm, kinh A Di Đà, kinh Kim Cang, kinh Dược Sư, kinh Địa Tạng, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm. Tụng kinhthể không cần chuông mõ hoặc dùng chuông mõ. Tốt nhất là nên chuyên nhất tụng một bộ kinh nhất địnhphát tâm trong khoảng thời gian nào đó đọc tụng bao nhiêu biến, không nên nay đọc kinh này, mai đọc kinh khác, khi tụng kinh cần đọc rõ âm từng chữ mà chưa cần phải hiểu rõ nghĩa của từng chữ trong kinh. Chỉ khi xem kinh mới cần hiễu rõ nghĩa. Ngoài những kinh thường tụng trên nếu có khả năng có thể xem thêm những kinh luận khác như : kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác, kinh Thắng Man, kinh Duy Ma, kinh Lăng Già, kinh Giải Thâm Mật, kinh Đại Bát Nhã, kinh Tạp A Hàm, kinh Tăng Nhất A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Trường A Hàm, luận Đại Thừa Khởi Tín, luận Bảo Tính, luận Câu Xá, luận Du Già Sư Địa, Trung luận, luận Đại Trí Độ, Lục Tổ Đàn Kinh

6.5. Niệm Phậttrì chú

Niệm Phậttrì chú vốn là một trong những phương pháp tu định. Sau khi Tịnh Độ tôngMật tông trở thành những tông phái độc lập mới có sự tách biệt nếu đứng trên lập trường chỉnh thể của Phật giáo mà nhìn thì cả ba hổ tương với nhau. Niệm Phật là chỉ chung cho niệm tất cả danh hiệu của các đức Phật, chư vị Bồ Tát chứ không phải chỉ riêng cho niệm Phật A Di Đà thôi. Niệm Phật có hai cách là tán tâm niệm Phậtchuyên tâm niệm Phật. Tán tâm niệm Phật là bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào cũng có thể niệm, niệm ra tiếng hoặc niệm thầm trong tâm, thậm chí vừa nói chuyện vừa vẫn có thể niệm Phật. Chuyên tâm niệm tức là có thời khoá nhất định, bằng các phương cách như liên tục niệm, cao giọng niệm hoặc tự thinh kỳ niệm. Ấn Quang Đại Sư khuyên nên dùng phương thức “số số niệm ” chứ không phải là “ký số niệm ”. Ký số niệm tức là dùng tràng hạt để tính số niệm Phật. Số số niệm là niệm từ một đến mười xong lại tính lại từ một. Nếu được như thế sẽ dễ đạt đến chuyên tâm hơn. Nếu muốn niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn phải dùng phương pháp chuyên tâm niệm thì mới đạt được.

Nhiều người cho rằng hể trì chú tức là tu mật pháp, thật ra không phải như vậy vì mật pháp chính quy là phải do Thượng Sư truyền trao cho, phải có pháp tu đúng nghi quỷ, còn trì chú thông thường thì cũng giống như trì danh niệm Phật vậy. Pháp trì chú là miệng đọc, tai nghe, tâm tư duy, thân khẩu ý tam nghiệp tương ưng thì trì chú mới có lực được, đó cũng chính là một dạng của định. Nếu tán tâm trì chú thì cũng có công đứccảm ứng, còn trì chú gì là tuỳ nhân duyên của mỗi người. Các chú thường trì tụng là chú Đại Bi, chú Quan Âm, chú Chuẩn Đề, chú Kiết tường, chú Dược Sư, chú Địa Tạng, chú Vãng Sinh, chú Lăng Nghiêm. Có thể dùng cách tính số biến chú đã trì, cũng có thể dùng cách tính thời gian trì chú.

6.6. Tu trí tuệ như thế nào

Trong các kinh điển cả Bắc lẫn Nam Tông có sự khác biệt khi nói về trí tuệ. Trí có thế gian tríxuất thế gian trí. Trí thức cùng sự thông minh tài trí của thế gian đều lấy ngã làm trung tâm bất kể là tiểu ngã của cá nhân hay ngã lớn của tập thể đều không thể thoát khỏi phiền não ngã chấp nên gọi là thế gian hữu lậu trí. Chỉ có những vận hành của tâm lý hay tinh thần vượt khỏi trung tâm tự ngã mới là xuất thế gian vô lậu trí.

Khai ngộ là sự hiển hiện công năng của vô lậu trí. Khi khai ngộ thì đoạn trừ phiền não của bản thân, rời chấp trước. Sau khi khai ngộ thì thí pháp vũ, tế khổ nạn của chúng sinh. Tự độ, độ người lại tự trí, tự giác, vô ngã cũng vô chúng sinh. Tuệ có văn, tư, tu tam tuệ.

Văn tuệdựa vào việc thính pháp nghe kinh, duyệt đọc kinh điển để hiểu rõ nguyên tắc tu tậpnghĩa lý trong Phật pháp.

Tư tuệdựa vào tuệ giải những điều đã nghe đã học, như pháp tu hành, một mặt vẫn y kinh giáo, mặt khác từ trong quá trình tu tậpđạt được sự thể nghiệm.

• Tu tuệ là tiến sâu hơn một bước nữa từ nền tảng tư tuệ tuy không y kinh điển mà đại dụng vẫn hiện tiền, lại vẫn không tương phản với kinh giáo.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22451)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16098)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15079)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 19081)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14527)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18690)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14492)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13672)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13630)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11910)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13335)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13726)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14009)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13314)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15084)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16241)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11155)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16517)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12007)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17683)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12933)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13764)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12932)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14922)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16470)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13211)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12164)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12861)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12981)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12853)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14259)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14190)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16574)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12432)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14446)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11401)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11100)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13253)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13952)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13246)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13066)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13565)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12809)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10305)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14042)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10274)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13770)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16338)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12052)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13043)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11717)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12742)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10884)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11058)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11014)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11961)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12863)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11153)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12679)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11410)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant