Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

18. Tể Tướng Ðầu Phật

21 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8345)
18. Tể Tướng Ðầu Phật

PHÁP NGỮ LỤC
Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

18. TỂ TƯỚNG ĐẦU PHẬT

Kính thưa quý vị,

Đạo Phật là đạo tùy tâm sở nguyện, hành thiện tu đức xuất phát từ tâm thành. Tuyệt đối không có cảnh dụ hoặc a dua. Bởi mục đích của Đức Phật là đưa người đến giác ngộ giải thoát nỗi khổ sanh tử luân hồi. Còn danh lợi quyền thế là còn hệ lụy phiền não khổ đau. Vì thế, người nào chân chánh thực hành lời Phật dạy thì sẽ cảm nhận ngay hạnh phúc cho mình và đem lại an lạc cho người.

Khi Đức Phật đến thành Tỳ Xá Ly thuyết pháp, dân chúng ở đây hâm mộ nô nức tiếp rước Ngài, ai nấy đều phát tâm tinh tấn tu hành. Những nhà phú hộ, các vị đại thần thi nhau phát tâm mua vườn xây cất tinh xá thỉnh Phật ở, để Phật thuyết pháp giảng đạo hướng dẫn hoặc tu hành.

Mọi cõi lòng người dân ở đây hâm mộ Phật pháp, phát tâm học đạo, hộ trì Tam Bảo, khuyên nhau làm việc thiện, tạo nên cái không khí vô cùng hân hoan cho thành Tỳ Xá Ly, mà trước đây chưa từng thấy bao giờ. Ngoài việc làm ăn sanh sống hằng ngày, ai nấy đều hăng hái đến nghe Phật thuyết pháp. Những quán rượu, những sòng bạc, những dạ hội truy hoan trụy lạc đã vắng khách. Trẻ già cô độc không nơi nương tựa; người nghèo tàn tật bệnh họan thiếu thốn thuốc thang, thiếu người hỏi han chăm sóc, từ bấy lâu kéo lê cuộc sống hẩm hiu trong cái xã hội nặng nề giai cấp thiếu tình thương, thi đua hưởng thụ, mạnh được yếu thua, khôn hiếp dại, mạnh ai nấy sống, thì nay đều được Phật và hàng đệ tử của Ngài thân đến thăm viếng an ủi giúp đỡ. Phật còn khuyên hàng đệ tử nên đào giếng thí nước, cất bệnh xá cho thuốc, săn sóc người quan quả cô đơn, tổ chức hội bố thí, lập thành những đoàn người từ thiện thăm viếng kẻ tật nguyền côi cút v.v... 

Sau khi Đức Phật đến thành Tỳ Xá Ly thuyết pháp giáo hóa thì cảnh cô đơn tủi phận đã vắng bóng, thay vào đó mọi cõi lòng đều được sưởi ấm bởi giáo Pháp của Phật và tình người biết tu hành làm thiện, xem nhau như tình huynh đệ, không còn trạng huống giai cấp trọng khinh nặng nề nữa.

Về phương diện tinh thần không phân biệt hạng người nào, Đức Phật bình đẳng dùng mọi phương tiện thuyết pháp về lý nhân quả luân hồi, khuyến hóa mọi người hướng thiện dưỡng tánh tu tâm. Ai nấy đều hoan hỷ tinh tấn tu học, tiêu đi bao nỗi buồn phiền sầu muộn. Trên mặt mọi người đều lộ vẻ hân hoan như cây nắng hạn lâu ngày được mưa, trăm hoa gặp mùa đua nở.

Lúc bấy giờ có vợ của quan Tể tướng, thấy vợ các quan đại thần hân hoan rủ nhau đi nghe Phật thuyết pháp trong cái không khí sinh hoạt hân hoan của dân chúng rộn rả vui tươi, khắp đó đây trên mặt mọi người dân đâu đâu cũng lộ vẻ hoan hỷ tin tưởng. Khắp trong cung nội ngoài thành, người ta dụm năm tụ bảy nói về Phật. Tán thưởng công đức của Phật và khâm phục sự kỳ diệu giáo lý của Ngài.

Để thỏa mãn lòng hiếu kỳ, thừa lúc quan Tể tướng vào tướng phủ lo việc quan, bà Tể tướng phu nhơn cùng với vợ các đại thần và đoàn thị nữ đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp, để xem thực hư ra sao mà người ta hân hoan đến thế. Bởi bà chưa từng bao giờ thấy mọi người hân hoan trong niềm tin tưởng, tạo thành cái sinh khí hân hoan cho cả cảnh vật trong nội ngoài thành như vậy. Bà thấy sao mà khi Phật đến thuyết pháp, mọi người sống gần nhau hơn, thân tình nhau hơn và vui vẻ giúp đỡ nhau hơn. Mọi người không còn rủ nhau bài bạc, không còn bận tâm chưng diện áo quần, mà chỉ nói về Phật, lo làm việc cúng dường Tam Bảo, rủ nhau làm việc phước thiện, và bàn đến chuyện tu tâm, việc công đức. Cái không khí sinh hoạt khác hẳn đó đã làm cho Tể tướng phu nhân rất đổi ngạc nhiên, dù không muốn nhưng trong lòng cũng thấy có sự lôi cuốn. Bà vốn ghiền chơi bạc, nhưng giờ đây vợ các quan đại thần đều tìm cách từ chối khéo không ngồi chơi với bà nữa. Hỏi thì họ bảo rằng bây giờ bận lo việc Phật Pháp được lợi ích an vui hơn. Tể tướng phu nhơn cảm thấy chưa bao gìờ bị lẻ loi như thế này. Thấy vậy, bà cũng đi theo vợ các quan đến ra mắt Phật. 

Sau khi nghe Phật thuyết pháp, Tể tướng phu nhơn đã hiểu được lý đạo, tâm trí mở mang. Bà tinh tấn phát tâm quy y Tam Bảo. Từ đó mỗi ngày thừa lúc Tể tướng vào triều lo việc quan, bà không những cùng các thị nữ thường đi nghe Phật thuyết pháp, mà còn khuyến khích các đại thần phu nhân khác cùng tinh tấn phát tâm tin Phật, làm việc thiện.

Viêệ sốt sắng hộ đạo của bà đã làm cho quan Tể tướng và các con bực mình. Họ đã dùng hết cách ngăn cản, nhưng lòng mộ đạo, tâm hộ pháp của Tể tướng phu nhơn chẳng những không lay chuyển, mà còn tinh tấn hơn nhiều. Bà thường thầm tự nhủ rằng, Phật dạy: "Trên con đường tu hành để đạt đạo, dù vấp phải trở ngại lần thứ một trăm, cũng phải mạnh dạn đứng đậy tiếp tục như lần đầu". Do đó, quan Tể tướng phu nhơn và các công tử tìm đủ cách ngăn giữ bà trong tướng phủ, không cho đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp, đều vô hiệu quả.

Quan Tể tướng lại bày ra đủ thứ tiệc tùng dạ hội, những cuộc du sơn ngoạn thủy để cho bà lãng quên việc hộ đạo đi nghe Phật thuyết pháp, nhưng bà không màng đến. Cuối cùng, quan Tể tướng cùng với các công tử đã có lần thành khẩn khuyên bà ở nhà tu cũng được, tu đâu cho bằng tu nhà. Họ khuyên bà ở nhà tu để còn có thì giờ cùng chồng con hưởng lạc thú phú quý vinh hoa. Bà đã nói vói quan Tể tưóng và các công tử rằng: "Phú quý giàu sang mà ta hưởng ngày nay đây phải tự nhiên bay đến cho ta. Mà nhờ đời trước ta đã khéo vun trồng phước đức, nên nay ta mới được quả tốt. Như trồng cây ăn trái, nếu chỉ biết hái hoa bẻ trái để dùng, mà không tiếp tục gia tâm gắng sức bón phân tưới nước, thì cây kia sẽ sớm khô tằn cằn cỗi. Phước đức của con người cũng như cây trái vậy. Phú quý giàu sang liên quan mật thiết với việc tu bồi phước đức, như bóng với hình. Người đời chỉ biết tu, biết làm phước đức khi nghèo thiếu tật nguyền hoạn nạn. Nhưng khi giàu có lành mạnh được danh vọng bạc tiền, thì chỉ biết hưởng thụ, quên đi việc tu hành. Nên cứ mãi quanh quẩn thăng trầm rồi lại phải nghèo, nghèo rồi giàu, vui rồi lại khổ, khổ lại vui, ràng buộc trong vòng lục đạo luân hồi sanh tử. Hưởng hết phước, rồi phải trở lại nghèo khổ đói rách. Đó là do thích hưởng thụ, vụng đường tu hành".

Tâm giải thoát hiểu đạo cùng với sự quyết tâm tinh tấn tu hành của Tể tướng phu nhơn, đã làm cho quan Tể tướng và các công tử của bà không còn cách khuyên ngăn nữa. Bà càng tinh tấn tu hành thì những người này càng ghét Phật, lòng ích kỷ, keo kiết, tánh không thích bố thí của các công tử và quan Tể tướng càng tăng gia, họ rất đổi bực tức sân hận. Nước đã tràn, không còn cầm lòng được nữa, một bữa nọ, quan Tể tướng dẫn đoàn cận vệ hùng hổ gấp rút đến tinh xá để bắt ép Phật, cấm đừng cho Tể tướng phu nhơn đến nghe Phật thuyết pháp hộ đạo nữa. Khi đến nơi, quan Tể tướng thấy mọi người cùng với Tể tướng phu nhơn đang thành kính quỳ gối đảnh lễ Phật cầu xin hỏi đạo, lòng quan Tể tướng càng thêm bất mãn, quan Tể tướng bước sấn vào hỏi Phật:

- Này ông Phật! Ông có biết sự cao quý và linh thiêng của cái đầu người ta không! Có biết trong đám người đang sụp quỳ lạy ông đó có Tể tướng phu nhơn của ta không! Cớ sao ông để người ta cúi đầu sát đất đảnh lễ như vậy?

- Đức Phật im lặng một hồi, rồi với giọng từ hòa bình thản, Ngài nói: "Có bao giờ người ta lạy quan Tể tướng một cách thành khẩn mà không có một sự cầu xin điều gì chưa? Có bao giờ mọi người cùng lạy một người hoặc một đấng thần linh mà không có cầu xin ân huệ hay bởi một quyền uy hiệu lệnh chưa? Hơn nữa, ta tuyệt nhiên không phải là một đấng thần linh, cũng không có một lợi lộc để ban thưởng và cũng không có quyền uy để giáng phạt ai. Ta cũng chưa hề bảo ai phải tuyệt đối nghe ta mà thiếu sự hiểu biết ta. Tể tướng bảo rằng đầu người cao quý linh thiêng. Vậy xin Tể tướng thử đem đầu người, đầu heo, đầu gà, đầu cá v.v... ra chợ treo bán xem, người ta sẽ chọn mua đầu nào? Đầu nào được người mua thì có giá trị.

- Vậy Ngài đã ban ân huệ gì cho người đời, mà được người đời tâm thành nô nức đem cúng dường đất, vườn, giảng đường, tịnh thất, vật thực hàng ngày? Tể tướng hỏi.

- Đức Phật đáp: Ta chưa từng thấy cho ai một điều gì, và cũng không thấy ai cho ta. Ta đến với đời và mọi người đến với ta đều do tâm nguyện.

- Quan Tể tướng: Lạ thật! Ngài bảo không thấy ai cho. Vậy vườn cây, giảng đường, Ngài thọ dụng từ đâu mà có!

- Ta đã nguyện dẫn đường cho đi. Ta chỉ thuốc trị bệnh. Ta đánh trống Bát Nhã để người đời tỉnh thức ra khỏi mê mộng. Đường giải thoát người đời đã thấy. Thuốc trị bệnh người đời đã biết. Trống Bát Nhã người đời đã nghe. Chỉ còn có việc người đời chịu đi, chịu uống, và chịu nghe để tỉnh thức thế thôi.

Đức Phật tiếp, ta mang tâm nguyện vào đời. Người đời mang tâm nguyện đến với ta. Tâm nguyện vốn là vô giá để thánh thiện hóa cuộc sống của mọi người. Tâm nguyện của mọi người do mọi người định đoạt lấy. Người xuất gia là người thoát ra ngoài ân oán, cá nhân. Người xuấy gia chỉ biết đem từ bi giác ngộlợi tha để trang trải cho đời. Gia tài của người xuất gia chỉ có chiếc áo cà sa, cái bình bát để độ nhật qua ngày. Lấy trời làm nhà. Lấy đất làm giường vá lấy gốc cây làm gối. Nơi nào chúng sanh cần thì đến. Chúng sanh hết cần thì đi. Đến đi với cõi lòng vị tha thênh thang rộng mở. Đời sống của người xuất gia là sống cho đạo pháp cao siêu, cho từ bi vô lượng, cho tình thương trải rộng thấm sâu vào lòng người và cho lẽ sống giác ngộ.

Tam Bảoruộng phước điền. Người đời muốn vun trồng cội phước, nên đem phẩm vật cúng dường Tam Bảo. Cúng dường là đem hạt guống lành gieo vào ruộng phước. Cũng như vậy, vườn, chùa, thiền thất, giảng đường có ra là để người đời gieo trồng cội phước, nơi thanh tịnh tu học, chỗ nương tựa tinh thần. Tam Bảo có là vì đời và cho đời. Khi người đời đã giác ngộ thì không còn Tam Bảochúng sanh. Nên người nào thực hành cúng dường bố thí thì được phước lợi trước.

Tể tướng nói: Nhưng thưa Thế Tôn, tôi không muốn Ngài khuyên Tể tướng phu nhơn của tôi tu quá nhiều, mất cả thì giờ lãng quên bổn phận đối với gia đình.

- Bổn phận cho trí tuệ cao siêu, cho từ bi cứu đời, cho lợi tha giác ngộ, đó là bổn phận của kẻ đại nhân cứu thế. Ngược lại, bổn phận chỉ biết cho chồng con cháu chắt, đầu tắt mặt tối cho tình cảm ái ân, quanh quẩn cho hạnh phúc cá nhân, quanh năm suốt tháng lo cho mình no ăn dư để, bo bo giàu có, giữ của, mặc cho đời thiếu thốn đói rách, không biết tu bồi phước đức giúp đỡ người đời, đó là thứ bổn phận ích kỷ hại nhơn. Đó là hiện thân của những kẻ vừa mới thoát kiếp ngạ quỷ, hoặc sắp sa vào ba đường ác. Những người như vậy cho dù sống ở đời đến trăm năm cũng chẳng có lợi ích gì cho chính bản thân của họ. Nghiệp lực của tham lam bỏn xẻn sẽ lại dẫn họ trở vào đường tăm tối. Khổ nghiệp sẽ đeo đuổi theo họ đời đời. Đạo của ta là đạo thanh tịnh giải thoát, là đạo của từ bi hỷ xả. Đạo của ta là cửa giác ngộ giải thoát.

Ta đến với đời bằng tâm nguyện độ sinh. Người đời đến với ta cũng bằng tâm nguyệnchí hướng thánh thiện lẽ sống. Ta chưa từng gõ cửa bất cứ nhà người nào để bảo người ta tin ta. Ta cũng chưa từng sai bảo bất cứ người nào trong hàng đệ tử của ta làm việc như vậy. Những ai dùng tiền bạc, danh vọng, thực vật, thế lực để dụ dỗ người khác tin theo đạo ta là những kẻ muốn phá hại ta. Những ai tin ta mà không hiểu ta là những kẻ sẽ bội phản ta. Đạo của ta là đạo như thật. Thật như không khí, như ánh sáng mặt trời, như nước, như đất. Muôn vật tự đó mà sanh trưởng. Không khí, ánh sáng, mặt trời, đất, nước không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào nơi vạn vậtcon người, mà chỉ mang nguồn sống, nắng ấm và ánh sáng cho muôn loài. Con người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm cho chính hành vi và tâm niệm của mình. Ta đã từng nói điều thiện, việc ác, thăng hoa hay trầm luân của con người là do chính con người tự tạo lấy. Sự đến cõi đời này của con người do tội và phước đưa đẩy. Và khi ra đi với con người cũng cũng chỉ có tội và phước đi theo. Những gì ta có ở cõi đời này ta sẽ trả lại cho đời. Dù ta có luyến tiếc đến đâu, vợ con nhà cửa tiền bạc cũng phải bỏ lại sau lưng, khi ta nhắm mắt từ giã cõi đời. Ngay đến con ta sinh ra, vợ chồng thân cận cũng không thay thế sự đau nhức bệnh hoạn cho ta được.

Cho nên, mọi việc thiện ác thăng trầm của đời ta chính ta tạo ra, thì ta phải nhận lấy trách nhiệm. Ta là một con người như bao nhiêu con người. Ta là một chúng sanh như muôn ngàn chúng sanh. Ta nhờ rõ biết cảnh đời là vô thường, con người bị trói buộc trong sanh, già, bệnh, chết, dày vò bởi tham sân, si, đọa đày trong ân oán, nên ta đã sớm dứt khoát ra đi tu hành tìm chân lý mà được giác ngộ thành Phật, thoát khỏi sanh tử luân hồi, vượt ngoài thị phi đố kỵ đa đoan của trần thế.

Tể tướng hỏi: Bạch Thế Tôn, nếu Ngài nói thế thì tất cả mọi người tu đều có thể giác ngộ thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi hết sao?

- Đức Phật đáp: Ta đã từng nói, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành, với điều cần yếu là phải thực tâm tinh tấn tu hành. Đạo của ta là đạo như thật. Cho nên người tu hành phải nói lời chân thật. Phải nghĩ những ý nghĩ chân thật, và làm những việc làm chân thật với tinh thần từ bi hỷ xả, sống đời vị tha thì người đó sẽ thành Phật. Khả năng thành Phật của chúng sanh thật là dồi dào. Hoàn cảnh của kiếp người không khổ quá cũng không sướng quá, rất thuận duyên cho việc tu hành thành đạo. Cảnh trời quá sung sướng, nên người nơi đó chỉ lo hưởng phước giàu sang sung sướng mà quên đi việc tu hành. Cõi địa ngục quá khổ đau tăm tối không còn có tâm thầnthời gian để tu tập. Địa ngục cũng như cõi trời lại không có Phật Pháp, khó có thiện duyên để phát tâm tu hành. Vì thế hột giống Bồ Đề khó phát triển.

- Quan Tể tướng hỏi: Bạch Thế Tôn, như tôi có thể tu hànhthành đạo được không?

- Đức Phật đáp: Chúng sanh trong cảnh giới Ta Bà ác trược này chẳng khác nào như sen ở trong đầm bùn nhơ nước đọng. Sen trong đầm có cái đã được vượt lên khỏi bùn nhơ nước đọng, nở hoa tô điểm cho đời ngát hương sắc thắm. Có cái vừa vượt khỏi lớp bùn nhơ. Có cái còn ngập dưới nước ao đầm, đang cố vươn lên khỏi mặt nước để nở hoa. Có cái còn chôn dưới lớp bùn đang cố vươn lên để cùng theo những hoa sen đã ra khỏi mặt nước. Cảnh đời ngũ trược nào khác bùn nhơ nước đọng của ao tù đầm sen. Sen trong đầm nào khác chúng sanh ở cõi đời này. Có cái đã vươn lên mặt nước trổ hoa. Có cái còn ngập trong nước. Có cái còn cựa đọng dưới lớp bùn để cố vươn lên. Có cái vừa mới nẩy mầm ra khỏi gốc sen. Chúng sanh trong cõi đời này cũng vậy. Có người đã tu hành giác ngộ giải thoát. Có ngưòi học hành thông minh tinh hiểu Phật Pháp, tin sâu nhân quả luân hồi, cầu đạo giác ngộ. Có kẻ đang ngu si đắm chìm trong dục vọng vô minh, hủy báng Tam Bảo, không tin nhân quả luân hồi. Lại có chúng sanh đang còn đọa lạc trong ba đường địa ngục, ngạ qủy, súc sanh. Nhưng tất cả đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật, nếu biết tu tỉnh. Quan Tể tướng là một trong những người đời trước đã có thiện duyên trồng nhiều cội phước, nên nay mới được danh vọng giàu sang. Nếu không biết tiếp tục vun bồi phước đức, thì cây phước đức kia sẽ cằn cỗi héo khô.

Sau khi nghe Phật dạy, quan Tể tướng đã giác ngộ, đảnh lễ Đức Phật cầu sám hối, và xin được quy y Phật làm đệ tử tu học đạo Ngài. Từ đó về sau quan Tể tướng đã hết lòng phụng sự Tam Bảo, nghe Phật thuyết pháp, cố gắng tu hành, và được Phật thọđời sau sẽ gặp hội Long Hoa của Đức Phật Di lặc ra đời, được làm quốc vương, thuần thành làm đệ tử của Phật, hết lòng hộ đạo.

Từ ngày quan Tể tướng quy y Phật, trong nhà vợ chồng con cái hòa vui trong niềm tin Phật Pháp. Những việc tiệc tùng dạ hội, những sòng bài nhậu hút náo nhiệt thâu đêm suốt sáng lãng phí tiền bạc lẫn thời gian không còn liên tục bày ra nữa. Giờ đây quan Tể tướng biết dùng thời gian vào việc nghe Phật, niệm Phật, tọa thiền. Ông biết dùng tiền bạc vào việc cúng dường, bố thí giúp đỡ nghười nghèo, mà trước kia ông không có để tâm đến. Tể tướng còn nhiệt tâm khuyên bạn đồng liêu cùng gấp rút tu học Phật "mau lên kẻo trễ".

Tánh tình của quan Tể tướng đổi hẳn, trở nên dịu dàng hơn xưa. Điều này khiến cho các vua trong triều không còn e ngại lấn quyền soán ngôi, ngoài dân chúng trước đây thay vì ghét sợ uy quyền hống hách của Tể tướng, thì nay họ đều kính mến thân cận phục tùng. Tiếng đồn "Hổ chúa biết tu".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31335)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26226)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27527)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27916)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26717)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31234)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20265)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22930)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30058)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21575)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20249)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22666)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20757)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30318)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28794)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34731)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44232)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35518)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22546)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20689)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24763)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37925)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19045)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19332)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21825)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20871)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29527)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35136)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28818)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32605)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26228)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43151)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34969)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43936)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37909)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21333)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49015)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39845)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53783)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36827)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49740)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47313)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27702)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27027)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27236)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24074)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20850)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34322)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22469)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25124)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25849)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22954)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21762)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23323)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant