Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

28. Vô ThườngVô Ngã

23 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9579)
28. Vô Thường – Vô Ngã

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
 Lê Sỹ Minh Tùng

28. Vô ThườngVô Ngã 

Phàm là con người thì ai ai cũng có nhiều tham vọng. Những tham vọng này đã gắn bó chặt chẽ trong tâm ta để sai khiến chúng ta phải tạo tác, giữ gìn bắt đầu từ tấm thân tứ đại nầy, cho đến mọi vật thể ở chung quanh chúng ta. Chẳng hạn chúng ta cố dành dụm tiền để mua chiếc xe mới để lái cho sang và sau nữa là hãnh diện với bạn bè. Cho dù chúng tagiữ gìn chiếc xe này cách mấy, thì ngày qua tháng lại nó cũng trở thành cũ và xấu đi. Tại sao vậy? Bởi vì tất cả mọi vật ở trên đời này đều luôn luôn biến đổi, chẳng khác nào như một giòng sông, một đám mây. Thời gian trôi qua như thế nào, thì mọi vật cũng trôi qua như thế đó. Nói theo danh từ nhà Phật, thì sự biến chuyển , đổi thay ấy gọi là luật vô thường.

 Vậy thế nào là vô thường?
 

 Phật dạy rằng: “Tất cả những gì trong thế gian đã là biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vậy vô thường là không ở mãi một trạng thái nhất định, mà thay hình đổi dạng, đi từ trạng thái hình thành để rồi biến hình đổi dạng và sau cùng đi đến sự tan rã. Phật gọi những giai đoạn thay đổi này là: sanh, trụ, dị, diệt. Thật vậy, mọi vật đều phải được tạo ra (sanh), tức là còn ở điều kiện tốt (trụ), sau đó phải chuyển từ từ sang xấu (dị) và sau cùng đi đến sự tan rã. Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ như hạt cát, đến lớn như trăng sao, đều phải tuân theo luật vô thường này.

Vậy cái luật vô thường này nó ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào?
 

Chúng ta hãy lắng nghe Thái tử Tất đạt Đa than thở với Công chúa Dà Du trước khi Ngài đi xuất gia:
 

“Chúng ta sẽ già yếu và xấu xa. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng ta những lớp tro bạc. Ôi! Mặt trong của nàng rồi sẽ mờ đục! Môi thắm của nàng rồi sẽ úa màu! Ta nghe trong ta, trong nàng và trong cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ, dưới sức tàn phá của cái búa thời gian, tất cả những gì quý giá của đời người… Chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng, những bảo vật ở trong ta, như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương!”.

Những lời than thở thốt ra từ một vị Thái tử cao sang quyền quý, tướng mạo khôi ngô, chẳng những đã thức tỉnh Công chúa Da Du, mà còn đánh thức tất cả những ai còn say đắm trong cảnh đời giả tạm mà sanh, lão, bệnh, tử là hiện thân của luật vô thường.
 

Thân tứ đại của chúng ta thì vô thường như thế, nhưng trong thế gian này con người vẫn cố tình bồi bổ, cung phụng xác thân của họ bằng cách tạo tác ra biết bao tội ác ghê gớm. Điển hình là vào thế kỷ thứ 18, ở bên Trung quốc có bà Từ Hi Thái hậu. Vì muốn lấy lòng những nhà ngoại giao Tây phương, bà đã đặt ra những món ăn chơi táo bạo trong đó có món ăn óc khỉ. Chúng ta thử tưởng tượng sự đau đớn cực độ của những con khỉ vô phước này khi con người móc óc của nó để ăn trong khi chúng nó vẫn còn sống. Thật là một cảnh tượng hãi hùng, chỉ vì muốn bồi bổ tấm thân vô thườngcon người đã nhẫn tâm làm những điều tàn ác như thế.
 

Không những Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy Thân là vô thường, mà ngay cả Đức Lão Tử cũng chán ngán cả chính cái thân mà theo Ngài là nguồn tội lỗi, là gốc khổ đau, nên thốt ra câu:
 

“Ngô hữu đại loạn, vị ngô hữu thân,
 

Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?”
 

 Tạm dịch:
 

Ta có cái khốn khổ lớn, vì ta có thân,

Nếu ta không có thân, thì đâu có khổ gì?
 

 Thật vậy, các tế bào trong thân thể của chúng ta luôn luôn thay đổi và cứ mỗi 7 năm thì những tế bào này hoàn toàn đổi mới. Chính sự thay đổi này đã làm cho chúng ta chóng lớn, chóng già, và dĩ nhiên là chóng chết. Vì sự vô thường của thân như thế, nên cổ nhân mới có câu:
 

Thân như bóng chớp chiếu tà,

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời,

Sá chi suy thạnh việc đời,

Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
 

 Hay là:
 

Hồng nhan già xấu, anh hùng mất

Đôi mắt thư sinh cũng mõi buồn.
 

 Thân thì vô thường như thế, còn Tâm thì như thế nào?
 

 Ngoại cảnh đã làm cho tâm niệm của con người thay đổi từng giây từng phút. Bây giờ thì chúng ta đang vui, bỗng vài phút sau thì chuyển sang buồn. Phút này đang nghĩ chuyện này, phút sau lại nghĩ chuyện khác, đôi khi đầu óc suy nghĩ vẫn vơ, không đầu, không đuôi. Chính vì cái tâm biến đổi mau lẹ như vậy, nên chúng tacảm tưởng như nó không thay đổi gì cả. Tâm của chúng ta được cấu tạo bởi từng niệm sanh diệt, nhưng vì chúng ta không nhận được sự biến chuyển mau lẹ của nó, nên chúng ta cứ tưởng là nó đơn thuầnbất biến. Cái tâm phút trước đâu phải là cái tâm phút này? Và cái tâm phút này đâu còn là cái tâm phút sau? Vậy cái tâm nào là cái tâm thật? Cái tâm phút trước, cái tâm phút nầy, hay là cái tâm phút sau?
 

 Chúng ta vui đó rồi buồn đó, thương đó rồi giận đó. Phút trước ta nghĩ chuyện nầy, giây phút sau ta nhờ chuyện khác. Vì thế mà Đức Phật cũng dạy rằng:
 

 Tâm người như vượn chuyền cây,

 Như ngựa chạy rông nơi đồng nội.
 

 Thật vậy, tâm niệm của con người sanh diệt trong từng sát na (giây) và vì chính nó sinh diệt mau lẹ như thế nên con ngườicảm tưởng như nó không thay đổi chi cả. Mỗi khi ta mở mắt, ta nhìn thấy ngoại cảnh, ta nghe âm thanh, ta nếm thức ăn gì, ta ngữi hương thơm hay thân ta có cảm giác thì trong tâm thức tức thì nảy sinh ý niệm. Như thế thì ý niệm sinh khởi vô cùng vô tận trong tâm thức của con người. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước và như thế nó cứ chồng chất lên nhau. Ý niệm càng nhiều thì vọng thức càng phát sinh và dĩ nhiên tâm càng vọng động. Tâm chứa đầy vọng thức thì dĩ nhiên chân tâm biến mất và những ô nhiễm như Tham-Sân-Si, Mạn, Nghi cũng vì thế mà tác tạo liên tục để hành hạ con người và đưa họ lún sâu vào vòng sinh tử Luân hồi. Nên nhớ có nghiệp là còn sinh tử, còn đau khổ. Xem như thế thì cái tâm thật là vô thường, mang tính chất tạm bợ và giả tạo, thế mà người đời hoang tưởng cho nó là trung tâm điểm của vũ trụ để bám víu vào nó, nhơn danh nó để tham lam, và làm bao nhiêu điều tội lỗi cũng như gây biết bao đau thương cho kẻ khác.
 

 Thân thì vô thường, ngay cả cái tâm cũng vô thường, vậy vật thể, sơn hà đại địavô thường không?
 

 Chẳng riêng gì sinh vật là biến đổi từ trẻ sang già rồi chết. Còn sông núi, đất cát cũng có khi lở khi bồi, và trăng sao cũng khi tròn khi khuyết. Nói chung không có vật gì là vỉnh viễn tồn tại cả. Thật thế, cuộc đời của chúng ta đã chứng kiến bao sự thăng trầm, vinh nhục, lên voi xuống chó. Giàu nghèo, sang giàu liên tục diễn ra trước mắt chúng ta như chỉ là một bức tranh vân cẩu mà thôi.
 

Đối với người Việt nam chúng ta, không còn ai quên được cuộc đổi đời sau năm 1975. Biết bao người giàu sang quyền quý, tiền rừng bạc biển, dinh thự nguy nga, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, thế mà nay chỉ còn là dĩ vãng. Lắm kẻ ngày xưa quyền cao chức trọng mà giờ đây bỗng trở thành những kẻ tha phương cầu thực, hay vướng cảnh tù đày.
 

 Sự vô thường đã sờ sờ trước mắt, thế mà biết bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh ngộ . Kẻ mua quan, người bán tước, kẻ tham danh, người ham lợi, đã gây ra bao cảnh đa đoan, nhân tình thế thái. Thuyết vô thường của Đạo Phật là một phương pháp rất thực tiển không phải tôn chỉ gieo vào lòng mọi người những quan niệm chán đời để nhìn đời một cách tiêu cực mà cốt yếu là muốn khai trừ những sự mê lầm và ngăn chận người đời chạy theo vật dục một cách mù quáng. Chúng ta đã đau khổ vì màu sắc tốt xấu, vì lời hay tiếng dở, vì mùi vị ngọt bùi, cay đắng, thì thuyết vô thường sẽ mang lại được sự bình tỉnh thản nhiên trước cảnh đổi thay bất ngờ và có thể lạnh lùng trước cảnh phân ly, chia biệt.
 

 Khi đã hiểu vô thường, chúng ta không còn quan trọng mọi thứ trong cái cõi đời này. Biết vô thường, chúng ta mới chán ngán với những thú vui tạm bợ, giả trácương quyết tìm lại cái giá trị chơn thật, cái hạnh phúc chân chính, cái Phật tánh sáng suốt, chắc chắn muôn đời.
 

Bởi vậy, người xưa cũng nói:

Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu

Tấm thân tứ đại tránh sao điêu tàn.
 
 

(Không có cái Ta)

(Non-self)
 

 Con người từ khi mới lọt lòng mẹ, rồi lớn lên, trưởng thành, già nua, bịnh hoạn, rồi cuối cùng cũng phải chết. Ngay cả khi chết, chúng ta cũng còn nghĩ rằng một cái gì đó vô hình tướng mà nó có sức mạnh để làm chủ chúng ta từ ý nghĩ cho đến hành động. Cái vô hình nấy có người gọi là linh hồn, có người gọi là bản ngã, có người gọi là thần thức, nhưng chúng ta gọi nó là cái Ta. Vì chúng ta nghĩ rằng trong ta chỉ có một cái Ta, thành thử cái Ta sẽ không biến đổi theo thời gian, hay nói một cách khác là cái Ta có tính chất tồn tại bất biến. Theo Phật thuyết thì sự tồn tại bất biến nấy được gọi là “ngã chấp”. Từ cái ngã chấp ấy, mà sinh ra “ngã ái”, nghĩa là yêu thương, chăm sóc và giữ gìn cái “ngã”.
 

 Vì quá thương yêu cái “ngã” của Ta, mà cuộc sống của chúng ta bị quay cuồng trong vòng luân hồi sanh tử. Thay vì sống một cuộc đời thanh cao đạo hạnh, chúng ta cam chịu làm nô lệ để thỏa mãn những dục tính của cái Ta, bởi vì chúng ta lo sợ một ngày nào đó chúng ta sẽ hoàn toàn mất nó. 
 

Nhưng thực ra, có một cái Ta như thế không?
 

 Theo Phật giáo, con người cũng như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hòa hợp tạo thành và cái Ta chỉ là một sự kết hợp của Ngũ Uẩn mà thôi. Vì là do nhân duyên hòa hợp nên Ngũ Uẩn không có tự tánh hay chủ thể. Thí dụ một hạt lúa tự nó không thể phát triển để thành cây lúa nếu không có những trợ duyên như phân bón, nước, ánh sáng mặt trời, tay vun trồng của người nông phu…Thế thì hạt lúa là vô ngã vì tự nó không thể phát triển hay tồn tại mà không có những trợ duyên khác. Cái thân của chúng ta cũng vậy, nếu thân là Ngã thì tự nó có thể lớn lên và sống mà không cần những trợ duyên bên ngoài như thức ăn, thức uống, áo quần, nhà cửa…Nhưng con người muốn sống thì cần phải ăn, phải uống…cũng như cây muốn sống thì cần phải có nước…Vì thế chính thân của con người hay nói theo danh từ nhà Phật là Ngũ UẩnVô ngã tức là không có chủ thể tức là Không (nói theo danh từ Tâm Kinh)
 

 Ngũ uẩn hay con người là sự kết hợp của Thân và Tâm mà Phật giáo gọi là Sắc và Danh. Sắc là chỉ cho Thân và Danh là cho Tâm thức. Danh hay phần Tâm thức tức là phần tinh thần thì gồm có Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
 

 Tóm lại:
 

 Thân xác thì gọi là Sắc uẩn.

 Tâm thức hay phần tinh thần thì có Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩnThức uẩn.
 

 Vậy thử xem trong ngũ uẩnbiến đổi như thế nào?
 

1) Sắc: là thân xác của con người thì tan hợp, hợp tan như bọt biển. Trời đất đó đây không định hướng, không có gì cố định cả. Vì thế Sắc là biến đổi, chạy theo thời gian, là vô ngã.
 

2) Thọ: là những cảm giác vui khổ của thân và tâm đều sinh diệt bất thường giống như những bong bóng trên mặt nước. Như thế thọ là vô ngã.
 

3) Tưởng: là những ảo ảnh giống như những giả cảnh mà người lữ hành trong sa mạc thường thấy. Vì là cảnh giả nên tưởng là vô ngã.
 

4) Hành: là sự biến chuyển thay đổi của tâm niệm. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước và như thế ý niệm cứ tiếp tục sinh khởi liên miên trong tâm thức của con người. Ý niệm là do bên ngoài mà có tức là do nhân duyên kết tạo mới có sự suy tư. Mà đã là do nhân duyên thì hành là vô ngã.
 

5) Thức: là sự hiểu biết phân biệt để có khả năng biến hiện ra các cảnh và phân biệt các cảnh. Khi sự phân biệt nầy thành cái biết thì đây chính là thức uẩn. Sự phân biệt có là do từ bên ngoài chớ không phải tự con người có được nên thức là uẩn chính là do nhân duyên tạo thành. Vì thế thức uẩn là vô ngã tức là Không. Tâm thức của con người biến đổi không ngừng từng giây từng phút. Theo Phật giáo sự biến đổi của tâm thì 16 lần nhanh hơn sự biến đổi của vật chất. Vì quá nhiều biến đổi như thế, nên thức cũng là vô ngã.
 

Vậy trong ngũ uẩn đâu có cái gì là bất biến, cố định đâu? 
 

Bởi sự biến đổi không ngừng này mà ngũ uẩn được xem là vô ngã. Nếu ngũ uẩn đã là vô ngã, thì trong ta làm gì có cái Ta. Như vậy bản ngã chỉ là một tiến trình biến đổi của danh (tâm) và sắc (thân) theo mối dây liên hệ nhân quả mà thôi.
 

Nếu nhìn kỹ lại cái thân tứ đại của chúng ta, thì mỗi ngày nó già đi một chút, không cách nào làm cho nó trẻ mãi được, rồi cuối cùng nó cũng phải chết. Đó là thân vô ngã. Còn Tâm có vô ngã không? Trong tâm của chúng ta lúc thì vui, khi thì giận, biến đổi khôn lường và như thế thì tâm cũng là vô ngã. Ngay đến cảnh vật chung quanh chúng ta cũng biến đổi không ngừng, đồi núi thì san bằng thành biển cả. Vạn vật thì cũng thế luôn luôn biến chuyển từng giây từng phút, cảnh này hủy diệt thì cảnh khác hiện lên.
 

Nói tóm lại, cái thân tứ đại của chúng ta chuyển từ trẻ sang già thì chính nó là vô ngã, mà Lục căn phát sinh từ tấm thân tứ đại này, thì Lục căn cũng là vô ngã mà thôi. Cùng lý luận này, thì Lục trầnLục thức cũng đều là vô ngã cả.
 

Chúng ta sống trong mê muội bởi vì chúng ta lầm tưởng thường với vô thường, ngã với vô ngã và cũng chính bởi cái mê mờ ấy mà chúng ta đau khổ lại càng đau khổ hơn. Chính cái vô ngã của nhà Phật đã giúp cho chúng ta nhận địnhphân biệt đâu là thật, đâu là giả, đâu là chính, đâu là tà để cho chúng ta có thể phá tan được cái vô minh và sự phiền não chấp chứa lâu đời lâu kiếp trong tâm hồn của chúng ta.

Phật dạy: “Chế ngự được tâm là quý nhứt, bởi cái tâm thật khó mà kiểm soát, nó chạy không ngừng theo tham dục. Khi tâm đã được chế phục, thì tìm thấy được hạnh phúc”.
 

“Chúng ta đem tâm “thương ghét” mà cầu đạo Bồ-đề, thì không bao giờ được giải thoát, vì nó là gốc của sanh tử luân hồi vậy”.
 

“Vì có phiền não nên có Bồ-đề, có sanh tử mới có Niết Bàn, có luân hồi nên mới có giải thoát, có chúng sanh mới có Phật”.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26614)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 18214)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 17029)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 22725)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 16299)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 21193)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 16606)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 15838)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 15339)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13784)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14820)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 15358)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 15790)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 15234)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 17396)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 17870)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 12959)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 18453)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 14055)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 19761)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 14675)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 15946)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 14629)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 16421)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 18707)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 15043)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 14186)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 14369)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 14672)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 14644)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 16403)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 15713)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 18430)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 13915)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 16651)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 13506)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 13264)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 15296)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 16088)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 15561)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 15211)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 15313)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 14653)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 12080)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 15955)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 11957)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 15592)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 18422)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 13844)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 14708)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 13441)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 14444)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 12572)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 12802)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 12552)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 13660)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 14573)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 12698)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 14274)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 13169)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM