Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Giáo Hội Tăng-Già

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11086)
2. Giáo Hội Tăng-Già

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIÁO HỘI TĂNG-GIÀ

Tăng, hay Tăng-già, do tiếng Phạn là Sangha mà ra. Đó là chỉ chung cho giáo hội, tập hợp tất cả những đệ tử của Phật đã xuất giathọ trì đủ giới luật. Trong Tăng-già gồm có tỳ-kheo là các vị phái nam và tỳ-kheo ni là các vị thuộc nữ giới. Tỳ-kheo và tỳ-kheo ni đều có những giới luật nghiêm ngặt. Tuy không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn chung đều là để giúp cho người tu luôn luôn đi đúng theo con đườngPhật Tổ xưa đã vạch ra, nhằm đạt đến chỗ diệt hết khổ nãothoát khỏi luân hồi.

Ở các nước còn giữ được quy củ giống như xưa kia, thì việc được xuất gia làm một vị tỳ-kheo là vinh dự lớn lắm. Muốn các vị trưởng lão thâu nhận, phải có đủ các điều kiện đúng đắn, thanh cao. Và khi đã làm đệ tử xuất gia của Phật thì khác hẳn với người thế tục, phải quyết chí đạt được trí tuệ giải thoát ngay ở đời hiện tại này.

Ở các nước ấy, ai không giữ được tịnh hạnh, hủy phạm đại giới thì người ta không cho ở lại chùa, hoặc ai tự biết mình không đủ nghị lực mà thắng tình dục thì có thể xả giới, trở lại đời sống của thế gian. Vì thế, trong giáo hội đều toàn là những người trong sạch. Cũng ở các nước ấy, người xuất gia chỉ gọi chung là tỳ-kheo, tỳ-kheo ni mà thôi, không có đặt ra các chức phận lớn nhỏ trong tăng đoàn. Tuy nhiên, ai có đức hạnhtrí tuệ thì được kính trọng lên hàng trên trước. Thường thì đó là những vị nhiều tuổi đạo, những bậc trưởng lão thông thuộc kinh điển, giới luậttu thiền nhiều năm.

Giáo hội Tăng-già chỉ gồm các vị tăng ni đã thọ đủ giới mà thôi, không tính đến hàng Phật tử cư sĩ tại gia và hàng sa-di, tức là những người xuất gia chưa đủ hai mươi tuổi, hoặc tuy lớn tuổi nhưng còn trong thời gian mới xuất gia chưa được thọ đủ giới.

Ở những nơi theo Đại thừa, hàng tăng sĩ được phân ra nhiều thứ bậc, và giới luật không hoàn toàn giữ nguyên như thuở xưa mà thường có sự châm chế, thay đổi ít nhiều để phù hợp hơn với phong thổ, tập tục mỗi nơi.

Điều này xét ra cũng hợp lý. Vì những xứ sở khác nhau không thể mang ra áp dụng những điều giống hệt như nhau. Vậy tốt nhất là giữ lấy cái cốt yếu, tinh túy, tức là làm sao đạt được mục đích đặt ra cho người thọ trì giới luật. Ở Tây Tạng, giáo hội có soạn những luật riêng để cho tăng chúng trong nước tu học. Ở Nhật, người ta cũng rút lấy cái tinh túy của Phật giáo Ấn Độ mà làm thành một nền Phật giáo cho nước mình.

Mặc dù danh xưng Tăng-già là chỉ riêng cho hàng xuất gia, nhưng ở những nơi theo Đại thừa, người ta hiểu rằng đạo Phậtcủa chung hết thảy mọi người, nên Phật tử lại được xem là bao gồm tất cả hàng xuất giatại gia. Những người đến cúng dường cho một ngôi chùa đều được tăng chúng ở đó gọi là bổn đạo. Đó là theo tông chỉ Đại thừa, người ta muốn cho đạo Phật lan rộng ra khắp chốn, nên vui lòng thâu nhận tất cả mọi người làm bổn đạo, chỉ cần có đến chùa lễ Phật, thọ Tam quy y là được rồi.

Theo Phật giáo nguyên thủy, hoặc Tiểu thừa, danh xưng Tăng-già chỉ dành cho tập thể các tăng sĩ có đủ tư cách làm lễ thế độ cho thiện nam tín nữ, có thể thâu nhận người xuất gia tu tập làm sa-di, có thể truyền giới cụ túc để trở thành tỳ-kheo, có quyền nhóm hội bố-tát một tháng hai kỳ, nghỉ yên một nơi trong ba tháng mùa mưa, và hành lễ tại chùa hay cầu nguyện, tụng niệm cho hàng Phật tử tại gia khi hữu sự.

Thuở xưa có ít chùa, nhưng mỗi chùa lại có rất nhiều tăng chúng. Có chùa đến cả ngàn người, cùng nương tựa, học hỏi, dìu dắt nhau trên đường tu học, lại giúp nhau giữ tròn giới luật.

Mỗi chùa cũng giống như một giáo hội Tăng-già thu nhỏ vậy, sinh hoạt tu tập phân minh và rất có trật tự. Chư tăng thường hội họp lại mà phán xét các trường hợp phạm lỗi, và khuyên răn, khuyến khích lẫn nhau trong những ngày Tự tứ.

Ở nước ta, trải qua nhiều thời kỳ ngoại xâm rối rắm, chùa tuy còn rất nhiều mà số tăng sĩ lại ít lắm. Mỗi chùa chỉ có một vài vị tăng, không thể thực hiện việc phân xử lẫn nhau. Đó cũng là một phần lý do khiến cho việc trì giới đôi khi trở thành cẩu thả, tùy tiện. Lẽ ra, mỗi chùa đều phải có nhiều tăng sĩ tu tập mới có thể cùng nhau hội họp mà bàn luận và phán xét những việc xây dựng chung cho Tăng-già. Nhưng thực tế ngày nay đáng buồn thay! Có nhiều chùa chỉ vỏn vẹn có một vị tăng. Như vị ấy có điều chi sai sót thì lấy ai mà xây dựng, khuyên răn?

Việc tu tập rất quý sự yên tịnh, nhưng cũng cần chỗ dựa vào tập thể tăng chúng. Vì thế, một tổ chức lý tưởng của ngôi chùa là nên có nhiều tăng chúng cùng đồng lòng tu tập. Vì đều quyết lòng tu tập, nên không ai ngăn trở ai, tuy ở đông mà vẫn giữ được sự yên tịnh. Nhưng trong khi tu tập, nếu có ai gặp lúc mềm lòng thối chí, đều sẽ được tập thể nâng đỡ, khuyến khích cho mà vượt qua. Còn những ai sai phạm, dù vô tình hay cố ý, cũng đều có tập thể phán xét phân minh và chỉ cho đường ngay nẻo chính để trở về.

Ngày nay việc tu tập ở các chùa thường rơi vào một trong hai cực đoan. Hoặc là chùa rất ít tăng chúng, không đủ để lập nên một hình thức chúng tu học đúng nghĩa. Thậm chí chỉ một hai vị tăng, vài cô ni cũng lập riêng cho mình một cảnh chùa, hoặc một cái tịnh thất... Tên gọi không quan trọng, nhưng cái chính là các vị ấy không được tu tập trong một tập thể Tăng-già, mà rất dễ tự mình phóng túng làm theo ý riêng. Trong khi tu tập như vậy, tất nhiên vẫn nghĩ rằng mình đang đi đúng đường. Nhưng nếu không có sự phán xét khách quan thì biết đâu là đúng đắn? Vì vậy, có nhiều vị chỉ lấy việc tụng đọc năm ba quyển kinh, rồi lễ lạy Phật và cầu nguyện cho hàng cư sĩ tại gia, đã cho như vậy là đủ rồi! Các vị không cố học hỏi thêm, trong khi Phật pháp thì mênh mông như biển lớn.

Điểm cực đoan thứ hai mà các chùa thường rơi vào là quên mất sự yên tĩnh quí báu của chốn thiền môn. Các chùa càng đông tăng chúng thì sinh hoạt lại càng rộn rịp vô cùng. Mặc dù cũng đều là những việc được xem là Phật sự, nhưng rộn ràng quá thì chẳng thể giữ được sự yên tĩnh để mà tu tập, nên cần phải có sự quan tâm bố trí cho phù hợp. Nếu không có một sự sắp xếp sinh hoạt hợp lý, nghiêm túc, thì ngôi chùa có thể sẽ trở thành một nơi rất khó mà tĩnh tọa, tham thiền, vì là nơi đông đảo tới lui của rất đông Phật tử. Những ai thật tâm muốn tham thiền học đạo lại thường phải đi tìm nơi khác yên tĩnh để tu tập, chẳng hạn như tìm đến những chỗ sườn non vách núi, hoặc bờ biển hoang vu, để có thể dễ dàng mà tham thiền, học đạo.

Phân tích như trên là để thấy rằng, Tăng-già cũng là một tập thể cần thường xuyên xây dựng, chỉnh tu. Không thể hiểu đơn giản chỉ cần cạo tóc xuất giađược giải thoát ngay. Tăng chúng tu tập cũng cần những điều kiện thích hợp, mà nhất là phải duy trì cho được những cốt tủy tinh hoaPhật Tổ đã truyền lại. Muốn như vậy thì việc nghiêm trì giới luật chính là chỗ để khởi đầu. Và muốn nghiêm trì giới luật, thì không phải chỉ tự mỗi người có thể làm được, mà cần phải có sự nâng đỡ, uốn nắn của một tập thể đồng tu. Chính vì vậyvai trò của Tăng-già là rất quan trọng.

Trong thời đại hiện nay, kinh sách có điều kiện in ấn dễ dàng, không như thuở xưa việc khắc bản rất khó khăn không dễ gì in kinh nhiều để phổ biến. Do vậy, ngày nay hàng Phật tử tại gia thông kinh hiểu luật cũng không phải là ít. Vì thế, chính sự thạnh suy trong Phật giáo cũng một phần do ở những cư sĩ tại gia, thiện nam tín nữ. Mặt khác, chính hàng cư sĩ tại gia là những kẻ lo lắng việc cấp dưỡng, cung phụng cho chư tăng để các vị có đủ điều kiện tu tập. Như vậy, cư sĩ tại gia nhất thiết phải đóng một vai trò tích cực trong việc tiếp sức với chư tăngxây dựng, hoàn thiện hệ thống Tăng-già, bảo tồn ngôi Tam bảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12510)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10402)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12360)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11668)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28833)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11462)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17458)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53093)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35500)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21414)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10688)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19263)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12430)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26059)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13329)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14395)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16857)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13143)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11621)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11632)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14520)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20496)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19003)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19597)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18674)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12202)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12334)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13876)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15048)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15050)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14004)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11411)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17208)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14989)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20228)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14632)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11729)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15078)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13007)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11678)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13180)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16895)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18356)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11513)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12898)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18443)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant