Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Chùa tháp và sự thờ cúng

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11091)
5. Chùa tháp và sự thờ cúng

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

CHÙA THÁP VÀ SỰ THỜ CÚNG

Chùa tháp là những nơi quan trọng, cần thiết trong đời sống chung của xã hội từ xưa đến nay. Chùa là nơi mà tăng chúng truyền giảng đạo lý và hóa độ cho hàng cư sĩ, khiến họ kính tín, quy y Tam bảo và sống cuộc sống chân chính của người Phật tử. Ngôi chùa cũng là nơi thực hiện các nghi lễ cúng kính quan trọng nhất của Phật giáo. Tháp là những nơi được dựng nên để cung kính thờ phụng các đức Phật, thường là được truyền nối từ đời này sang đời khác. Nhiều tháp Phật danh tiếng qua nhiều ngàn năm nay vẫn còn đứng vững.

Vào thời Phật tại thế, hình thức đầu tiên của chùa chiền chính là những khu tinh xá. Sau khi Phật thành đạo và đi khắp nơi giáo hóa, số đệ tử xuất gia theo ngài ngày càng đông hơn. Với những bậc trưởng lão đã đắc đạo, thực hiện đời sống khất thực không nhà, đêm ngủ nơi gốc cây, thì việc cất chùa là không cần thiết. Các vị chẳng tham luyến ở những nơi êm ấm, mà chỉ chuộng cuộc sống khất thực không nhà để có thể hóa độ khắp nơi. Nhưng với những người mới xuất gia, và số này rất đông, cần phải có một nơi để họ ở yên trong thời gian còn phải học hỏi. Chính tại nơi ấy, Phật mới có thể truyền dạy cho họ những kiến thức đầu tiên về cuộc sống tu hành, giúp họ có được những vốn liếng tinh thần tối thiểu để sau đó mới có thể tự mình vững bước trên đường đạo mà không sợ lầm đường lạc lối. Xét rõ nhu cầu ấy, vua Tần-bà-sa-la, một vị vua hết sức ủng hộ Phật pháp, đã cúng dường cho Phật và Giáo hội khu tinh xá Trúc Lâm ở gần kinh thành Vương-xá, trong ấy có đủ chỗ ở cho tất cả Giáo hội thời bấy giờ.

Về sau còn có một thương gia là ông trưởng giả Tu-đạt đã mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà và xây dựng thành một khu tinh xá gọi tên là tinh xá Kỳ Viên, dâng cúng cho Phật và giáo hội để làm chỗ tu tậpgiáo hóa cho bá tánh trong thành Xá-vệ. Đó là những cảnh chùa xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Phật giáo.

Về sau, việc xây dựng chùa chiền vẫn thường noi theo như trước. Người ta chọn những nơi thanh vắng, yên tĩnh, xa những tiếng ồn ào của thị tứ, và xây dựng đủ các phòng ốc cần thiết cho sinh hoạt của một tập thể tu tập. Trong đó phải có chánh điện thờ Phật, liêu phòng của vị trú trì, nhà bếp, nhà ăn, lại phải có chỗ để chư tăng phương xa ghé lại có thể nghỉ ngơi, kể cả chỗ nghỉ dành cho bá tánh nữa. Ngoài ra còn phải có giảng đường làm nơi thuyết pháp hoặc tụng đọc giới bổn, phòng cất giữ kinh sách... Cuối cùng là phải đảm bảo nơi vệ sinh công cộng, như nhà tắm, nhà tiêu...

Chùa ở miền Tây Tạng thường xây dựng rất to lớn, đồ sộ, bởi ở xứ ấy người ta mộ đạo Phật. Chẳng những đạo Phậtquốc giáo, mà ngày xưa những người cầm quyền chính trị trong nước cũng chính là một vị tăng. Chùa chiền ở Tây Tạng cũng là những trường học tổng hợp, dạy cho người ta đủ các môn khoa học như đạo đức, triết lý, thần học, chiêm tinh, y học, mỹ thuật...

Tuy là chọn những nơi yên tĩnh, nhưng chùa chiền thường cũng không xây dựng ở chỗ quá hẻo lánh. Khác với những am, cốc... là nơi chỉ chuyên dành cho các vị tăng sĩ muốn tập trung hết tinh thần vào việc tu tập; chùa chẳng những là nơi tu tập mà còn là nơi để truyền bá giáo lý nhà Phật, là chỗ dựa tinh thần cho bá tánh nhân dân. Vì vậy, chùa phải chọn nơi thuận tiện đường giao thông, hoặc ít ra cũng không quá khó đến. Lý tưởng nhất là chùa nằm cách khu dân cư không xa lắm để người dân có thể tìm đến bất cứ lúc nào, nhưng cũng không quá ồn ào ảnh hưởng đến việc tu tập của chư tăng. Ở những vùng có núi non, chùa thường được chọn cất trên núi nhưng có đường lên, để vừa yên tĩnh vừa có thể là nơi bá tánh tụ họp dễ dàng.

Nhiều nơi sẵn có địa thế thiên nhiên, người ta có thể sửa sang các hang động tự nhiên trong núi non lại đôi chút, cũng tạo thành được những ngôi chùa đẹp và thuận tiện cho chư tăng tu tập.

Dù là chùa ở nơi đất bằng, triền núi hay hang động, kiểu cách có phần nào khác nhau, nhưng cách bài biện, thờ phụng cũng đều có những nét chung như nhau. Vật dụng, giường ghế, hầu hết đều vừa phải với nhu cầu sử dụng, chủ yếu là cần có để dùng chứ không chạy theo sự phô trương, chưng diện. Nhất là các ngôi chùa ở chốn núi non, hang động thì lại càng đơn sơ hơn hết.

Trong Phật giáo, sự thờ cúng cung kính nhất là xá-lỵ Phật. Đó là những tro cốt còn lại sau khi người ta làm lễ thiêu xác Phật. Những xá-lỵ ấy được thờ kính như Phật còn tại thế. Người ta mong muốn được thờ cúng những xá-lỵ của Phật, vì họ tôn kính Phật và giáo pháp của ngài. Khi ngài nhập diệt, người ta nghĩ rằng chỉ còn có cách ấy để được gần gũi Phật. Vì thế, sau khi Phật nhập diệt, các vị vua chúa đương thời đã mang cả quân binh đến để giành lấy xá-lỵ Phật. Cũng may là vẫn còn các vị đệ tử lớn, khéo đem giáo pháp của Phật ra mà khuyên dạy họ, khiến cho hết thảy đều hòa hoãn mà phân chia nhau, không đến nỗi xảy ra cuộc đao binh.

Ngoài xá-lỵ Phật, người ta cũng giữ lại những vật dụng mà Phật đã dùng để thờ kính. Nhưng chỉ có xá-lỵ Phật là tồn tại lâu dài, còn những vật dụng khác đều hư nát theo thời gian, đến nay không còn nữa. Tuy nhiên, có những nơi Phật đã đi qua trên đường giáo hóa, vẫn còn để lại nhiều dấu tích. Những nơi ấy đều được xây dựng thành chùa lớn để thờ cúng và làm chỗ cho thập phương tín đồ về chiêm ngưỡng.

Có những nơi mà tín đồ Phật giáo khắp nơi trên thế giới đều mong muốn được có một lần đến lễ bái, chiêm ngưỡng. Đó là bốn thánh địaliên quan chặt chẽ đến cuộc đời đức Phật. Một là vườn Lam-tỳ-ni, nơi Phật đản sanh. Hai là cây bồ-đề nơi Phật thành đạo ở xứ Già-da. Ba là vườn Lộc, thường gọi là Lộc uyển ở xứ Ba-la-nại, nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên, gọi là Chuyển pháp luân. Bốn là chỗ hai cây sa-la xứ Câu-thi-na, nơi Phật nhập diệt. Bốn thánh tích ấy từ bao đời qua vẫn được giữ gìn cẩn thận và là nơi chiêm ngưỡng cho hàng triệu tín đồ Phật giáo ở khắp nơi trên thế giới. Chính như ngài Huyền Trang ở Trung Hoa khi sang Ấn Độ thỉnh kinh cũng có kể lại việc đến chiêm ngưỡng các thánh tích ấy.

Tuy vậy, nhìn chung thì rất ít người có đủ may mắn để được đến lễ Phật trước nơi thờ xá-lỵ Phật, hoặc những nơi thánh tích. Vì vậy, người ta phải tạo ra những hình tượng của Phật để thờ cúng. Hình tượng của Phật tuy là do nơi một gốc mà ra, nhưng ở mỗi xứ sở khác nhau đều có cách thể hiện riêng của mình. Một mặt là do nơi nghệ thuật điêu khắc, tô vẽ ở nơi đó. Mặt khác, cũng phụ thuộc vào cách hiểu, cách suy nghĩ của con người ở đó về Phật pháp. Bởi vậy, ta không nên lấy làm lạ khi thấy pho tượng Phật ở Thái Lan không hoàn toàn giống với tượng PhậtTrung Quốc, lại càng không giống với Nhật Bản hay Triều Tiên. Nhưng những nét chính thì quả thật vẫn rất dễ nhận ra.

Ở các chùa, tượng Phật chính được thờ là tượng Phật tổ Thích-ca. Theo Nam tông, người ta chỉ thờ độc tôn, nghĩa là riêng một tượng đức Thích-ca trên chánh điện mà thôi. Đối với Bắc tông, người ta tin rằng Phật có rất nhiều hóa thân, mà hết thảy đều không ngoài ý nghĩa giác ngộ viên dung. Vì vậy, có thể tùy theo hoàn cảnh, ý nghĩa mà sự cung kính cũng có những đối tượng khác nhau. Do đó, ngoài tượng Phật Thích-ca, trong chùa còn thờ nhiều tượng khác như Phật Di-lặc, Phật A-di-đà, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng ...

Cũng vậy, ở nhà riêng của hàng cư sĩ, người ta không chỉ thờ riêng là đức Phật tổ Thích-ca. Người ta còn có thể thờ các vị Phật và Bồ Tát khác nữa. Tuy nhiên, khác với ở chùa, có thể đồng thời thờ rất nhiều hình tượng, ở nhà riêng thì người ta thường chỉ chọn thờ một trong các hình tượng phù hợp với sở nguyện của mình mà thôi.

Phần đông cư sĩ tại gia mong cầu sự bình an trong gia đình là chính. Vì thế, đa số gia đình chọn thờ tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là vị Bồ Táthạnh nguyện cứu khổ ban vui cho hết thảy chúng sanh, chỉ cần ai xưng niệm danh hiệu của ngài, là ngài sẽ quán xét theo âm thanh đó mà đến cứu khổ cứu nạn cho. Chính vì vậy mà ngài lấy hiệu là Quán Thế Âm. Hạnh nguyện của vị Bồ Tát này được Phật nói rõ trong phẩm Phổ Môn, thuộc bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Cũng có một số cư sĩ tại gia thờ tượng Phật tổ Thích-ca. Một số tu theo pháp môn Tịnh Độ thì thờ tượng Phật A-di-đà, hoặc Bồ Tát Địa Tạng.

Việc thờ Phật ở nhà riêng thường kết hợp với bàn thờ tổ tiên, theo cách bố trí là thờ Phật trên cao và thờ ông bà tổ tiên dưới bàn thấp hơn. Tuy nhiên, nhất thiết phải có hai lư cắm hương riêng biệt.

Hình thức thờ Phật ở nhà riêng ngày nay phổ biến khá rộng rãi. Điều đó rất có lợi cho việc truyền bá giáo pháp của Phật, vì những cư sĩthờ Phật ở nhà thường mời thỉnh các vị tăng sĩ đến nhà để tụng kinh hộ niệm, hoặc cầu an, hoặc cầu siêu, trong những khi gia đình hữu sự. Nhất là việc tụng kinh A-di-đà vào những ngày kỵ giỗ ông bà tổ tiên là điều rất tốt, vì nhân đó mà người ta thường cúng chay, hạn chế được sự sát sanh. Những dịp được mời đến nhà cư sĩ để tụng kinh là những dịp tốt để chư tăng truyền dạy Phật pháp cho hàng cư sĩ, đồng thời trừ phá những sự mê tín dị đoan, tà kiến trong chốn dân gian. Và quan trọng hơn hết là làm cho hàng cư sĩ hiểu rõ được ý nghĩa đúng đắn của việc thờ Phật.

Thờ Phật ở nhà là sự nhắc nhở hàng ngày để người cư sĩ không quên lời Phật dạy, luôn cố gắng giữ tròn Năm giới mà mình đã thọ nhận, cũng như giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống phải giữ cho phù hợp với lời Phật dạy. Tuy nhiên, cũng có không ít cư sĩ không hiểu được ý nghĩa chân chính này, xem việc thờ Phật như để cầu xin được ban phước tránh họa, hoặc có thể giúp mình có nhiều may mắn hơn trong cuộc sống. Cách hiểu này không phù hợp với lý nhân quả của nhà Phật, khiến cho người ta thường trở nên tiêu cực, thụ động, quên mất rằng những việc tốt xấu trong đời hết thảy đều do nơi nghiệp nhân mà mình đã tạo ra dẫn đến.

Đạo Phật truyền vào nước ta từ rất sớm. Cho đến những năm đầu của thế kỷ 11, đạo Phật đã trở thành quốc giáo. Từ đó về sau, từ vua chúa cho đến quan thuộc cũng đều hết lòng ủng hộ Phật pháp, thậm chí có nhiều vị vua về cuối đời cũng chính thức xuất gia. Vì vậy, đạo Phật đã hình thành và phát triển khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn. Việc thờ cúngtin theo Phật đã trở nên quen thuộc ở khắp nơi, đâu đâu cũng có.

Tuy nhiên, Phật giáo không chuộng ở số lượng mà chủ yếu xem trọng hiệu quả thực tiễn của việc truyền dạy giáo pháp. Vì vậy, việc giảng giải ý nghĩa chân chính của việc thờ cúng cho hàng cư sĩ được rõ hiện nay vẫn còn là một trách nhiệm quan trọng, nặng nề nhất của các vị tăng sĩ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19864)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28980)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20695)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19455)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30515)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36441)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33247)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35580)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20997)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21928)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25268)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25804)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31274)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18568)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25150)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23782)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28949)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20876)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31456)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25554)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29730)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22532)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25730)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23295)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25757)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23734)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40618)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23358)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22461)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22105)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23517)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23292)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24321)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41114)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19007)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20503)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27732)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38133)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34084)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36799)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24011)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29206)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60170)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27630)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68757)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24544)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24508)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22722)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26379)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26556)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20829)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20075)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27562)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46457)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53592)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23619)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21101)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25597)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29277)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant