Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

50. Người xấu như quỷ

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9931)
50. Người xấu như quỷ

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ NĂM: LÀM ÁC ĐỌA NGẠ QUỶ

NGƯỜI XẤU NHƯ QUỶ

Lúc ấy, Phật ở gần thành Tỳ-xà-ly, ven sông Di-hầu. Trong thành có một trưởng giả tên là Giá-la, vừa gặp được một người vừa ý, mới cưới làm vợ.

Người vợ khi mang thai, bỗng nhiên trở nên hôi hám lạ thời, chẳng ai dám đến gần. Người chồng hỏi: “Ngày trước bà không hôi hám thế này, sao nay bỗng nhiên thay đổi, trở nên hôi hám đến thế?” Vợ đáp rằng: “Điều này chắc hẳn là do đứa con đang mang trong bụng. Do nghiệp lực của nó mà khiến ra có chuyện như vậy.”

Khi đủ ngày tháng, bà hạ sinh một bé trai hình dung cực kỳ xấu xí, khó coi. Lại khi sinh ra có phân dơ bao quanh người, hôi hám cùng cực. Dần dần lớn lên, cứ muốn tìm đến những chỗ dơ nhớp có phân người, khuyên can, dạy dỗ cũng chẳng rời xa những nơi ấy được.

Cha mẹ, thân thuộc họ hàng thấy sự kỳ quái, dơ nhớp như vậy dần dần không chịu nổi, xô đuổi ra chỗ xa vắng, chẳng cho về nhà nữa. Từ đó thằng bé lang thang tìm những chỗ dơ nhớp mà ở, ăn phân dơ, uống nước tiểu người, xem đó là những món ngon lạ nhất. Nhân dân đều nghe biết, gọi nó là quỷ Diêm-bà-la.

Trong xứ ngày ấy có một thầy ngoại đạo đi du phương, tình cờ gặp Diêm-bà-la, liền thốt ra lời này: “Lành thay!” Diêm-bà-la từ bé đến lớn chưa từng được ai thân cận, gần gũi, ngay cả đến cha mẹ còn xa lánh, nên nghe thầy ngoại đạo nói lời thân mật với mình thì vui mừng không kể xiết, liền quỳ dưới chân thầy mà cầu xin được thâu nhận làm đệ tử.

Thầy ngoại đạo nhận Diêm-bà-la làm đệ tử, dạy phải sống lõa thể, lấy tro hòa nước bôi trét lên khắp người, gọi đó là phép tu tịnh hạnh.

Diêm-bà-la tuy nghe theo thầy, nhưng vẫn không bỏ được tập tính cũ, thời tìm đến ở những nơi dơ nhớp và ăn phân người, uống nước tiểu. Những kẻ đồng tu ngoại đạo thấy vậy thì la mắng thậm tệ, hoặc có khi lấy gậy gộc mà đuổi đánh. Nhiều lần như vậy, Diêm-bà-la sợ quá trốn ra bờ sông, tìm được một cái hang sâu mà lánh vào đó, đêm đêm mới rời hang mà đi kiếm ăn.

Nơi bờ sông ấy có 500 ngạ quỷ hình thể cực kỳ xấu xí, gớm ghiếc. Đám ngạ quỷ ấy thấy Diêm-bà-la đến ở gần bên nhưng vẫn thản nhiên, không hề chê bai hay mắng nhiếc gì. Diêm-bà-la thấy vậy mừng lắm, thường nghĩ rằng: “Ta sống với loài người từ bao lâu nay, chỉ toàn nghe những lời chê bai, la mắng, lại còn đòn roi đánh đập, xô đuổi, khổ não cùng cực. Thật chẳng bằng như nay sống chung với lũ quỷ này, thoát được những nạn khổ ấy.”

Không ngờ lũ quỷ ấy tuy chẳng chê bai hình dạng của Diêm-bà-la, nhưng khi thấy chàng ta tìm ăn phân người, uống nước tiểu thì thảy đều ghê sợ, chẳng muốn ở gần, mới rủ nhau bỏ đi nơi khác. Diêm-bà-la buồn rầu thảm thiết, nói rằng: “Ta mang thân xấu xí, chưa từng có bạn hữu. Nay gặp được các ngươi tưởng là cùng chung thân phận, có thể sống với nhau mà chia sẻ vui buồn. Ngờ đâu nay các ngươi cũng muốn bỏ ta mà đi.” Nói như vậy rồi, trong lòng đau đớn khôn nguôi, nằm lăn trên đất chẳng muốn dậy.

Đức Thế Tôn ngày đêm thời lấy tâm đại bi quán sát chúng sanh, biết nơi nào có thể độ thoát được đều tùy duyên mà đến cứu độ cho. Bấy giờ Phật thấy biết Diêm-bà-la sầu khổ cùng cực, biết là cơ duyên đã đến nên hiện thân đến nơi ấy mà thuyết pháp cho nghe.

Diêm-bà-la được nghe Phật thuyết pháp rồi, sinh lòng vui mừng khôn xiết. Lại được thấy thân Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chiếu sáng quanh thân rực rỡ, trong lòng vô cùng hoan hỷ, liền quỳ xuống chí thành lễ Phật, thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Người hạ tiện, xấu xí, dơ nhớp như con đây, có thể nào xuất gia được chăng?”

Phật dạy Diêm-bà-la rằng: “Trong đạo pháp của ta, không có hạng người nào mà lại không được xuất gia cả.”

Diêm-bà-la nghe vậy thì vui mừng khôn xiết, liền quỳ lạy, cầu thỉnh xin được xuất gia nhập đạo. Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói rằng: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện nơi thân, thành một vị sa-môn oai nghi đầy đủ.

Diêm-bà-la được Phật độ cho xuất gia rồi, trong lòng hoan hỷ, liền đọc kệ rằng:

Nay nhờ ơn Phật,
Được tròn sở nguyện.
Bỏ thân dơ nhớp,
Được thành sa-môn.

Phật bảo Diêm-bà-la rằng: “Nhà ngươi nay đã được xuất gia thành đệ tử của ta rồi đó.”

Diêm-bà-la từ đó chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-La-hán, có đủ Ba trí sáng, Sáu phép thần thông, hàng trời người thảy đều kính ngưỡng.

Bấy giờ, chư tỳ-kheo thấy việc như thế, liền thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay tỳ-kheo Diêm-bà-la đây trước đã tạo những ác nghiệp gì mà nay phải chịu khổ báo như vậy? Lại có nhân duyên gì được gặp Phật và tu tập sớm đắc đạo quả?”

Phật liền đọc cho chư tỳ-kheo nghe bài kệ rằng:

Đã tạo nghiệp thiện, ác,
Trăm kiếp đều chẳng mất.
Đều do nghiệp, nhân duyên,
Nên chịu quả như thế.

Chư tỳ-kheo nghe kệ rồi, liền thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay nhân duyên quá khứ như thế nào? Xin vì chúng con giảng giải cho được biết.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Vào giữa Hiền kiếp này, tuổi thọ con người kéo dài đến bốn mươi ngàn năm. Khi ấy, xứ Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu là Ca-la-ca Tôn-đà, cùng với các vị tỳ-kheo đi giáo hóa khắp nơi, đến một nước tên là Bảo Điện.

Vua nước ấy liền cùng với quần thần ra khỏi thành nghinh tiếp Phật, thỉnh Phật vào thành thọ nhận cúng dường trong ba tháng. Phật nhận lời.

Nhà vua được Phật nhận lời, liền truyền cho sắp xếp, chuẩn bị đầy đủ mọi thứ để cúng dường. Lại cho xây dựng một khu tự viện rất nhiều phòng ốc dành cho chư tăng, thỉnh một vị tỳ-kheo đứng đầu coi sóc, quản lý mọi việc.

Ngày nọ, có vị tỳ-kheo đã chứng quả A-La-hán đi hành hóa phương xa, ghé vào tự viện ấy. Những người thiện tín đang làm công việc trong tự viện, nhìn thấy oai nghi của vị A-La-hán đều vui mừng chiêm ngưỡng, thỉnh vào phòng trong nấu nước thơm cúng dường cho ngài tắm rửa, lại lấy các thứ bột hương chiên-đàn quý giá để bôi lên thân ngài.

Bấy giờ vị tỳ-kheo chủ trì nơi ấy vừa đi ra ngoài về, thấy việc như vậy thì sinh lòng ganh ghét, sân hận, liền buông lời thóa mạ rằng: “Ngươi là người xuất gia, sao dám lấy hương thơm của người khác mà dùng trên thân mình như vậy?”

Vị A-La-hán nghe lời nói đó, liền lấy lòng từ bithương xót cho vị tỳ-kheo ấy, biết rằng ông ta sẽ phải thọ khổ báo vì lời nói ấy. Ngài muốn giúp ông sinh lòng hối cải để giảm bớt tội nghiệp, nên liền bay lên giữa hư không, hiện đủ mười tám phép thần biến. Vị tỳ-kheo kia thấy vậy vô cùng hổ thẹn, hối hận, liền lễ bái cầu xin sám hối.

Do nghiệp duyên như thế, đã năm trăm kiếp qua rồi, người ấy vẫn thường phải thọ thân xấu xí, dơ nhớp, chẳng ai dám đến gần.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Tỳ-kheo buông lời xúc phạm vị A-La-hán ngày xưa, nay chính là tỳ-kheo Diêm-bà-la đó. Nhờ khi ấy đã sám hối với vị A-La-hán kia, nên nay mới được gặp ta và xuất gia đắc đạo.”

Phật thuyết nhân duyên của Diêm-bà-la rồi, chư tỳ-kheo thảy đều tự biết phòng hộ các nghiệp thân, miệng, ý, lìa bỏ lòng ganh ghét, sân hận, lánh sợ đường sinh tử, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19886)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29012)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20723)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19476)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30552)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36486)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33284)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35616)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21029)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21950)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25298)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25827)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31300)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18592)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25177)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23808)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28975)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20903)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31471)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25586)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29755)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22552)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25757)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23320)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25773)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23773)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40638)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23376)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22495)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22119)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23532)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16986)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23307)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24354)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41149)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19024)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20521)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27757)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38159)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34099)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36819)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24044)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29242)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60199)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27648)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68784)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24564)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24523)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22755)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26399)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26579)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20851)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20097)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27599)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46506)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53610)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23646)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21131)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25630)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29312)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant